Bản án 98/2019/DS-ST ngày 21/11/2019 về tranh chấp hợp đồng vay tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN KẾ SÁCH, TỈNH SÓC TRĂNG

BẢN ÁN 98/2019/DS-ST NGÀY 21/11/2019 VỀ TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG VAY TÀI SẢN 

Ngày 21 tháng 11 năm 2019, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Kế Sách, tỉnh Sóc Trăng, xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 272/2019/TLST-DS, ngày 30 tháng 9 năm 2019, về tranh chấp Hợp đồng vay tài sản, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 200/2019/QĐXXST-DS, ngày 18 tháng 10 năm 2019 và Quyết định hoãn phiên tòa số 125/2019/QĐST-DS, ngày 04 tháng 11 năm 2019, giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Bà Nhâm Thị L, sinh năm 1976, địa chỉ: Số 87A, ấp A, Thị trấn K, huyện Kế Sách, tỉnh Sóc Trăng (có mặt).

- Bị đơn: Ông Lê Văn T, sinh năm 1984 (vắng mặt)

Nơi đăng ký Hộ khẩu thường trú: Số 81/1, ấp Số *, xã Đ, huyện Kế Sách, tỉnh Sóc Trăng.

Nơi làm việc: Phòng Công tác Đ-Công tác C, Công an tỉnh Sóc Trăng, địa chỉ Số 18, đường H, Phường X, Thành phố Sóc Trăng, tỉnh Sóc Trăng.

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Bà Nguyễn Thị Hồng C, sinh năm 1991, địa chỉ: Ấp A, xã A, huyện Cù Lao Dung, tỉnh Sóc Trăng (vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

* Theo đơn khởi kiện ngày 26/9/2019, Biên nhận ngày 04/9/2017, Giấy cam kết ngày 02/3/2018, Biên bản lấy lời khai ngày 07/11/2019 và các tài liệu chứng cứ khác trong quá trình giải quyết vụ án, nguyên đơn bà Nhâm Thị L trình bày:

Ông Lê Văn T vay tiền của bà hai lần: Lần thứ nhất vay 70.000.000 đồng (không nhớ ngày tháng cụ thể) và lần thứ hai vay thêm 30.000.000 đồng vào ngày 04/9/2017, lãi suất đều là 20%/năm, sau đó ông T có làm giấy cam kết vào ngày 02/3/2018 sẽ trả hết cho bà trong thời hạn 03 tháng, từ ngày 02/3/2018 đến ngày 02/6/2018, nhưng ông T chỉ trả tiền lãi được 7.000.000 đồng vào đầu năm 2018, thì ngưng trả cho đến nay.

Nay bà yêu cầu Tòa án nhân dân huyện Kế Sách, tỉnh Sóc Trăng buộc ông T trả số tiền vốn 100.000.000 đồng và tiền lãi từ ngày 04/9/2017 đến ngày xét xử theo mức lãi suất 1,666%/tháng (20%/năm).

*Tại phiên tòa, Kiểm Sát viên Viện kiểm sát nhân dân huyện Kế Sách cho rằng việc tuân theo pháp luật tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án của Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa, kể từ khi thụ lý vụ án cho đến trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị án, đều thực hiện đúng theo quy định của Bộ luật Tố tụng Dân sự. Đối với người tham gia tố tụng, nguyên đơn đã thực hiện đúng quyền và nghĩa vụ tố tụng, bị đơn và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vắng mặt là chưa thực hiện đúng quyền và nghĩa vụ tố tụng của mình. Về nội dung đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

Tại phiên tòa, nguyên đơn không rút lại đơn khởi kiện, các đương sự không thoả thuận được với nhau về việc giải quyết vụ án.

- Về tố tụng:

[1] Theo biên bản xác minh ngày 16/10/2019, Công an xã Đ, huyện Kế Sách cho biết như sau: Ông Lê Văn T vẫn còn đăng ký hộ khẩu thường trú tại Số 81/1, ấp Số *, xã Đ, huyện Kế Sách, tỉnh Sóc Trăng, nhưng hiện nay ông T không có mặt tại địa phương, ông T đi đâu, làm gì địa phương không rõ.

[2] Theo Biên nhận ngày 04/9/2017, Giấy cam kết ngày 02/3/2018 thể hiện nội dung: Ông Lê Văn T, Công an huyện Kế Sách, cư ngụ ấp Số *, xã Đ, huyện Kế Sách, tỉnh Sóc Trăng, có mượn của bà L tổng cộng 100.000.000 đồng, có làm giấy cam kết sẽ trả hết cho bà L trong thời hạn 03 tháng, từ ngày 02/3/2018 đến ngày 02/6/2018.

[3] Tại điểm a khoản 2 Điều 6 Nghị quyết số 04/2017/NQ-HĐTP, ngày 05/5/2017 của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân Tối cao, hướng dẫn một số quy định tại khoản 1 và khoản 3 Điều 192 Bộ luật Tố tụng Dân sự, về trả lại đơn khởi kiện, quyền nộp đơn khởi kiện lại vụ án, cụ thể về việc xử lý việc ghi địa chỉ của người bị kiện, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:“a) Trường hợp trong đơn khởi kiện, người khởi kiện đã ghi đầy đủ và đúng địa chỉ nơi cư trú, làm việc hoặc nơi có trụ sở của người bị kiện, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan theo địa chỉ được ghi trong giao dịch, hợp đồng bằng văn bản thì được coi là “đã ghi đầy đủ và đúng địa chỉ nơi cư trú, làm việc hoặc nơi có trụ sở”. Trường hợp người bị kiện, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan thay đổi nơi cư trú, làm việc hoặc nơi có trụ sở gắn với việc thực hiện quyền, nghĩa vụ trong giao dịch, hợp đồng mà không thông báo cho người khởi kiện biết về nơi cư trú, làm việc hoặc nơi có trụ sở mới theo quy định tại khoản 3 Điều 40, điểm b khoản 2 Điều 277 Bộ luật Dân sự năm 2015 thì được coi là cố tình giấu địa chỉ và Tòa án tiếp tục giải quyết theo thủ tục chung mà không đình chỉ việc giải quyết vụ án vì lý do không tống đạt được cho bị đơn, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan”.

[4] Tòa án đã tiến hành niêm yết các văn bản tố tụng theo đúng quy định, tại phiên tòa, bị đơn ông Lê Văn T và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan bà Nguyễn Thị Hồng C, mặc dù đã được Tòa án triệu tập hợp lệ đến lần thứ hai, nhưng đều vắng mặt không rõ lý do, cho nên, Hội đồng xét xử căn cứ vào điểm b khoản 2 Điều 227 và khoản 3 Điều 228 của Bộ luật Tố tụng Dân sự, tiến hành xét xử vắng mặt họ.

[5] Tại phiên tòa, nguyên đơn bà Nhâm Thị L thay đổi yêu cầu khởi kiện là chỉ yêu cầu bị đơn ông T trả số tiền nợ vay 100.000.000 đồng và yêu cầu tính lãi từ ngày 02/3/2018 theo mức lãi suất 20%/năm. Xét việc thay đổi yêu cầu khởi kiện này của nguyên đơn là không vượt quá phạm vi khởi kiện ban đầu, phù hợp với quy định tại khoản 2 Điều 71 và khoản 1 Điều 244 của Bộ luật Tố tụng Dân sự, nên Hội đồng xét xử chấp nhận.

- Về nội dung:

[6] Căn cứ vào Biên nhận ngày 04/9/2017 và Giấy cam kết ngày 02/3/2018, thể hiện nội dung: Ông Lê Văn T, cư ngụ ấp Số 1, xã Đại Hải, huyện Kế Sách, tỉnh Sóc Trăng, có mượn của bà L tổng cộng 100.000.000 đồng, lần đầu 70.000.000 đồng (không rõ ngày tháng năm), lần hai 30.000.000 đồng vào ngày 04/9/2017. Sau đó, đến ngày 02/3/2018, ông T làm giấy cam kết sẽ trả hết cho bà L trong thời hạn 03 tháng, từ ngày 02/3/2018 đến ngày 02/6/2018 (Bút lục 14-15). Như vậy, có căn cứ xác định bị đơn có mượn của nguyên đơn 100.000.000 đồng, không có thời hạn và không có thỏa thuận lãi, đến nay bị đơn vẫn chưa trả nợ cho nguyên đơn.

[7] Tại Điều 463 của Bộ luật Dân sự năm 2015 quy định:“Hợp đồng vay tài sản là sự thoả thuận giữa các bên, theo đó bên cho vay giao tài sản cho bên vay; khi đến hạn trả, bên vay phải hoàn trả cho bên cho vay tài sản cùng loại theo đúng số lượng, chất lượng và phải chịu lãi nếu có thoả thuận hoặc pháp luật có quy định”.

[8] Tại khoản 4 Điều 466 của Bộ luật Dân sự năm 2015 quy định nghĩa vụ trả nợ của bên vay:

“4. Trường hợp vay không có lãi mà khi đến hạn bên vay không trả nợ hoặc trả không đầy đủ thì bên cho vay có quyền yêu cầu trả tiền lãi với mức lãi suất theo quy định tại khoản 2 Điều 468 của Bộ luật này trên số tiền chậm trả tương ứng với thời gian chậm trả, trừ trường hợp có thỏa thuận khác hoặc luật có quy định khác”.

[9] Tại khoản 1 Điều 469 của Bộ luật Dân sự năm 2015 quy định:

“1. Đối với hợp đồng vay không kỳ hạn và không có lãi thì bên cho vay có quyền đòi lại tài sản và bên vay cũng có quyền trả nợ vào bất cứ lúc nào, nhưng phải báo cho nhau biết trước một thời gian hợp lý, trừ trường hợp có thỏa thuận khác”.

[10] Căn cứ vào các quy định nêu trên, Hội đồng xét xử chấp nhận một phần yêu cầu tính lãi của nguyên đơn theo mức lãi suất 10%/năm, thời gian bắt đầu tính lãi từ ngày ông T ký cam kết trả nợ (ngày 02/3/2018), tiền lãi được tính như sau:

Thời gian tính lãi: 01 năm 08 tháng 19 ngày (từ ngày 02/3/2018 đến ngày xét xử sơ thẩm 21/11/2019).

Mức lãi suất 10%/năm (0,833%/tháng).

Thành tiền: 100.000.000 đồng x 0,833%/tháng x 01 năm 08 tháng 19 ngày = 17.184.790 đồng, khấu trừ số tiền lãi bị đơn đã trả 7.000.000 đồng, còn lại 10.184.790 đồng.

[11] Xét yêu cầu tính lãi của nguyên đơn từ ngày 02/3/2018, theo mức lãi suất 20%/năm (1,666%/tháng), cụ thể tiền lãi: 100.000.000 đồng x 1,666%/tháng x 01 năm 08 tháng 19 ngày = 34.369.580 đồng.

Xét thấy: Nguyên đơn cho rằng lãi suất thỏa thuận khi cho vay là 20%/năm, nhưng không cung cấp được chứng cứ chứng minh, ngược lại, theo nội dung Biên nhận ngày 04/9/2017 thể hiện rõ đây là hợp đồng vay không kỳ hạn và không có lãi, cho nên, Hội đồng xét xử căn cứ vào các quy định nêu trên của Bộ luật Dân sự năm 2015, chỉ chấp nhận yêu cầu tính lãi với số tiền 17.184.790 đồng, theo như đoạn [10] nêu trên, không chấp nhận yêu cầu tính lãi của nguyên đơn với số tiền 17.184.790 đồng.

[12] Xét trách nhiệm liên đới của vợ, chồng: Nguyên đơn chỉ khởi kiện bị đơn, không có khởi kiện vợ bị đơn, bà Nguyễn Thị Hồng C, để yêu cầu bà Châu phải có trách nhiệm liên đới đối với khoản vay của bị đơn. Mặt khác, bà Châu cũng không biết khoản tiền vay này, do đó, không có cơ sở để xác định bà Châu phải chịu trách nhiệm liên đới đối với giao dịch dân sự do bị đơn thực hiện với nguyên đơn, theo quy định tại Điều 27 của Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014 và Điều 288 của Bộ luật Dân sự năm 2015.

[13] Vì vậy, Hội đồng xét xử căn cứ vào Điều 93 của Bộ luật Tố tụng Dân sự; Các điều 280, 357, 166, 463, 466 và khoản 2 Điều 468 của Bộ luật Dân sự năm 2015; Khoản 1 Điều 5 và điểm a khoản 3 Điều 6 Nghị quyết số 01/2019/NQ-HĐTP, ngày 11/01/2019 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân Tối cao, hướng dẫn áp dụng một số quy định của pháp luật về lãi, lãi suất, phạt vi phạm. Chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của bà Nhâm Thị L, buộc ông Lê Văn T phải có nghĩa vụ trả cho bà L tổng số tiền vốn và lãi 110.184.790 đồng.

[14] Đề nghị của Kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân huyện Kế Sách về việc chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn là có căn cứ chấp nhận một phần đối với số tiền vốn và lãi 110.184.790 đồng, không có căn cứ chấp nhận phần tiền lãi 17.184.790 đồng, theo như nhận định và phân tích nêu trên.

[15] Về án phí dân sự sơ thẩm: Do yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn đối với bị đơn được chấp nhận một phần, nên nguyên đơn phải chịu án phí tương ứng với phần yêu cầu không được Tòa án chấp nhận; Bị đơn phải chịu án phí tương ứng với phần yêu cầu của nguyên đơn đối với bị đơn được Tòa án chấp nhận, theo quy định tại khoản 1 Điều 147 của Bộ luật Tố tụng Dân sự và khoản 4 Điều 26 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14, ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án, cụ thể như sau:

- Buộc bị đơn ông T phải chịu 5.509.000 đồng (đã làm tròn số).

- Buộc nguyên đơn bà L phải chịu 859.000 đồng (đã làm tròn số).

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ: Khoản 3 Điều 26, điểm a khoản 1 Điều 35, Điều 93, khoản 1 Điều 147, khoản 2 Điều 71, khoản 1 Điều 244, điểm b khoản 2 Điều 227, khoản 3 Điều 228, Điều 271 và Điều 273 của Bộ luật Tố tụng Dân sự; Các điều 280, 288, 357, 166, 463, 466 và khoản 2 Điều 468 của Bộ luật Dân sự năm 2015; Điều 27 của Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014; Điều 26 của Luật Thi hành án Dân sựKhoản 4 Điều 26 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14, ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án; Khoản 1 Điều 5 và điểm a khoản 3 Điều 6 Nghị quyết số 01/2019/NQ-HĐTP, ngày 11/01/2019 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân Tối cao, hướng dẫn áp dụng một số quy định của pháp luật về lãi, lãi suất, phạt vi phạm; Điểm a khoản 2 Điều 6 Nghị quyết số 04/2017/NQ-HĐTP, ngày 05/5/2017 của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân Tối Cao, hướng dẫn một số quy định tại khoản 1 và khoản 3 Điều 192 Bộ luật Tố tụng Dân sự.

Tuyên xử:

1. Chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của bà Nhâm Thị L, buộc ông Lê Văn T phải có nghĩa vụ trả cho bà L tổng số tiền 110.184.790 đồng, trong đó tiền vốn 100.000.000 đồng và tiền lãi 10.184.790 đồng.

2. Khi bản án có hiệu lực pháp luật, kể từ ngày người được thi hành án có đơn yêu cầu thi hành án thì hàng tháng người phải thi hành án còn phải trả lãi cho người được thi hành án theo mức lãi suất quy định tại khoản 2 Điều 357 và khoản 2 Điều 468 của Bộ luật Dân sự năm 2015, đối với số tiền chậm thi hành án.

3. Không chấp nhận yêu cầu tính lãi của bà Nhâm Thị L với số tiền 17.184.790 đồng.

4. Án phí dân sự sơ thẩm:

- Buộc ông Lê Văn T phải chịu 5.509.000 đồng.

- Buộc bà Nhâm Thị L phải chịu 859.000 đồng, được khấu trừ vào số tiền tạm ứng đã nộp 3.324.000 đồng, theo biên lai thu tiền số 0000914, ngày 30/9/2019 của Chi cục Thi hành án Dân sự huyện Kế Sách, tỉnh Sóc Trăng. Như vậy, bà L đã nộp xong án phí và được nhận lại số tiền tạm ứng thừa 2.465.000 đồng.

5. Báo cho các đương sự biết được quyền kháng cáo Bản án này trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án, để yêu cầu Tòa án nhân dân tỉnh Sóc Trăng xét xử lại theo thủ tục phúc thẩm, đối với đương sự không có mặt tại phiên toà thì thời hạn này tính từ ngày bản án được giao cho họ hoặc được niêm yết.

6. Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6, 7, 7a và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 luật thi hành án dân sự./

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

258
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 98/2019/DS-ST ngày 21/11/2019 về tranh chấp hợp đồng vay tài sản

Số hiệu:98/2019/DS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Kế Sách - Sóc Trăng
Lĩnh vực:Dân sự
Ngày ban hành:21/11/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về