Bản án 98/2018/HSST ngày 28/12/2018 về tội trộm cắp tài sản

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN NGHI LỘC – TỈNH NGHỆ AN

BẢN ÁN 98/2018/HSST NGÀY 28/12/2018 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 28/12/2018, tại trụ sở Toà án nhân dân huyện Nghi Lộc, tỉnh Nghệ An xét xử sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số 101/2018/TLST-HS ngày 13 tháng 12 năm 2018 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 132/2018/QĐXXST-HS ngày 13 tháng 12 năm 2018 đối với bị cáo:

Họ và tên: Nguyễn Đức C (Giới tính: Nam). Sinh ngày 14 tháng 6 năm 1988 tại xã Nghi Diên, huyện Nghi Lộc, tỉnh Nghệ An. Nơi ĐKHKTT và nơi ở hiện nay: xóm A, xã Nghi D, huyện N, tỉnh Nghệ An. Nghề nghiệp: Lao động tự do. Trình độ văn hoá: 01/12. Quốc tịch: Việt Nam. Dân tộc: Kinh. Tôn giáo: Thiên chúa giáo. Con ông: Nguyễn Đức Tr, sinh năm: 1964. Con bà: Phan Thị S, sinh năm: 1961. Vợ: Nguyễn Thị Ch, sinh năm: 1989 và có 02 con. Tiền sự: không.

Tiền án: Bản án số 29 ngày 14/04/2017 bị Tòa án nhân dân huyện Nghi Lộc, tỉnh Nghệ An xử phạt 09 tháng tù cho hưởng án treo thời gian thử thách 18 tháng về tội : "Trộm cắp tài sản".

Nhân thân: Ngày 17/07/2017, bị Công an thành phố Vinh xử phạt vi phạm hành chính theo Quyết định số 310 số tiền 1.000.000 đồng về hành vi : “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Đã thi hành theo Biên lai số 0011708 ngày 09/08/2017

Bị cáo bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 02/11/2018 tại Nhà tạm giữ Công an huyện Nghi Lộc. Có mặt tại phiên tòa.

Bị hại: chị Nguyễn Thị Lan A . Sinh năm 1981, trú tại xóm A, xã Nghi D, huyện N. (Có mặt tại phiên toà).

Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan: Chị Nguyễn Thị H - Sinh năm 1989

Địa chỉ: xóm A, xã Nghi P, thành phố V, nghệ An ( Vắng mặt)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào khoảng 17 giờ ngày 30/10/2018, Nguyễn Đức C hẹn bạn là Phạm Thị L (Sinh năm 1990, trú tại xóm 3, xã Nghi X, huyện N) đến cổng trường Cao đẳng sư phạm Nghệ An để ăn chè. Sau khi gặp nhau và ăn chè xong, thì C rủ L về nhà tại xóm A, xã Nghi D, huyện N để C thay quần áo. Chị L đồng ý và cùng C đi Taxi về nhà tại xã Nghi D, huyện N. Khi đi gần đến nhà C, thì C xuống xe còn L và lái xe Taxi chờ ngoài đường. Khi về nhà, do vợ đi làm khóa cửa nên C không vào nhà được. C đi bộ ra cửa hàng tạp hóa ở gần nhà mua một chiếc đèn pin với giá 70.000 đồng (Bảy mươi nghìn đồng) với mục đích mang về đứng ngoài cửa sổ soi đèn để lấy sào chọc quần áo ra nhưng không được.

Đến khoảng 18 giờ 30 phút cùng ngày, C đi bộ ra xe Taxi, trên đường đi ra C thấy nhà của chị Nguyễn Thị Lan A (Sinh năm 1981, trú tại xóm A, xã Nghi D, huyện N) mở cửa sổ, đèn điện trong nhà hắt ra ngoài đường, lúc này C nảy sinh ý định tiếp cận ngôi nhà nhìn qua cửa sổ để xem có điện thoại sạc pin để gần cửa sổ không, nếu có thì lấy trộm. Sau đó, C trèo qua bờ rào của ngôi nhà, nhìn qua cửa sổ nhà chị Lan A thì phát hiện có một chiếc điện thoại Iphone đang sạc pin ở trong phòng ngủ, nên C vòng ra cửa trước đi vào nhà qua cửa chính và đi thẳng vào phòng ngủ cầm chiếc điện thoại rút dây sạc cất vào túi quần bên trái và đi ra thì thấy có một chiếc máy tính sách tay màu đen, nhãn hiệu ASUS đang để trên bàn, C liền lấy chiếc máy tính đi ra và trèo qua bờ rào ra ngoài đường. Đi được được khoảng 50m, thì C bỏ chiếc máy tính bên đường và gọi Taxi và chị L đến đón. Khi taxi đến, C đi lấy chiếc máy tính bỏ vào trong người đi lên xe và yêu cầu lái xe Taxi đưa đến ốt sửa điện thoại Hải Dung, gần trường Cao đẳng sư phạm Nghệ An thuộc xã Hưng L, tỉnh Nghệ An và cầm chiếc máy tính cho chị Nguyễn Thị Kim D (Sinh năm 1984, trú tại khối 2, phường Trường T, thành phố V, tỉnh Nghệ An) là chủ cửa hàng với giá 2000.000 đồng (Hai triệu đồng). Sau đó, dùng số tiền này trả tiền Taxi là 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng) và tiếp tục đi ăn đêm với L và đưa cho L 100.000 đồng (Một trăm nghìn đồng) để chị L tự bắt taxi về nhà, sau đó C thuê nhà nghỉ để ngủ.

Vào ngày 31/10/2018, C quay lại ốt cầm đồ Hải Dung chuộc lại chiếc máy tính và bán lại cho anh Nguyễn Trọng H (Sinh năm 1991, trú tại khối 12, phường B, thành phố V, tỉnh Nghệ An) với giá 2.300.000 đồng (Hai triệu, ba trăm nghìn đồng). Đến trưa cùng ngày, C và L đến nhà nghỉ Hương Bưởi, thuộc xóm 4, xã N, thành phố V, tỉnh Nghệ An thuê phòng, C đã đưa chiếc điện thoại Iphone 7 Plus cho chị L để L đưa lại cho chị Nguyễn Thị H (Sinh năm 1989, trú tại xóm A, xã Nghi P, thành phố V là lễ tân nhà nghỉ để tiếp tục được thuê phòng vì trước đó Nguyễn Đức C còn nợ 1.300.000 đồng (Một triệu, ba trăm nghìn đồng) tiền thuê phòng.

Đến ngày 02/11/2018 nhận thức được hành vi của mình là phạm tội nên Nguyễn Đức C đã đến Công an huyện Nghi Lộc đầu thú.

Tại bản kết luận định giá tài sản số 67/KL - ĐG ngày 06/11/2018 của Hội đồng định giá tài sản UBND huyện Nghi Lộc kết luận: " 01 (Một) chiếc điện thoại Iphone 7 plus màu vàng và 01 chiếc máy tính sách tay nhãn hiệu Azus, màu đen có giá trị là 12.000.000đ (Mười hai triệu đồng)”.

Tại Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Nghi Lộc, Nguyễn Đức C đã thành khẩn khai báo về hành vi phạm tội của mình, phù hợp với lời khai của người bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan, người làm chứng và các tài liệu, chứng cứ thu thập được trong quá trình điều tra vụ án.

Tại bản cáo trạng số 56/VKS-HS ngày 11/12/2018 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Nghi Lộc đã truy tố Nguyễn Đức C về tội "Trộm cắp tài sản” quy định tại khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự.

Tại phiên toà hôm nay, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Nghi Lộc giữ nguyên quan điểm như Cáo trạng truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử: áp dụng khoản 1 Điều 173; điểm s khoản 1; khoản 2 điều 51; điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự xử phạt bị cáo Nguyễn Đức C mức án từ 12 đến 15 tháng tù.

Về trách nhiệm dân sự: Chị Nguyễn Thị Lan A đã được gia đình bị can đền bù thỏa đáng, đồng thời đã nhận lại đầy đủ tài sản của mình bị chiếm đoạt, nên không yêu cầu gì về dân sự.

- Về vật chứng: 01 (một) chiếc điện thoại Iphone 7 plus, và 01 (một) chiếc máy tính sách tay nhãn hiệu ASUS là tài sản hợp pháp của chị Nguyễn Thị Lan A nên Cơ quan Cảnh sát điều tra đã trả lại cho chủ sở hữu.

- Về dân sự: Chị Nguyễn Thị Lan A đã nhận lại tài sản và không yêu cầu gì về dân sự. Anh Nguyễn Trọng H đã nhận được số tiền 2.300.000 đồng (Hai triệu, ba trăm nghìn đồng).

Chị Nguyễn Thị H yêu cầu Nguyễn Đức C trả 2.100.000 đồng (Hai triệu, một trăm nghìn đồng) tiền thuê phòng nghỉ.

Tại phiên tòa, bị cáo không tranh luận gì mà chỉ xin Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt.

Căn cứ vào các chứng cứ, tài liệu đã được thẩm tra tại phiên toà; căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên toà trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện chứng cứ, ý kiến của kiểm sát viên, bị cáo và những người tham gia tố tụng khác.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1]. Về tính hợp pháp của các hành vi, quyết định tố tụng: Các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan điều tra công an huyện Nghi Lộc, điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Nghi Lộc, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra, truy tố và tại phiên toà, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, các quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đều được thực hiện hợp pháp.

[2]. Về căn cứ xác định hành vi phạm tội của bị cáo: Tại phiên toà hôm nay, bị cáo đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình đúng như cáo trạng truy tố.

Xét lời khai của các bị cáo tại phiên toà phù hợp với lời khai tại cơ quan điều tra,lời khai của bị hại; phù hợp với các chứng cứ, tài liệu khác có tại hồ sơ vụ án thì đã có đủ cơ sở kết luận:

Vào khoảng 18 giờ 30 phút ngày 30/10/2018, tại xóm A, xã Nghi D, huyện N, tỉnh Nghệ An, Nguyễn Đức C đã lấy trộm 01 (Một) chiếc điện thoại Iphone 7 plus màu vàng và 01 (Một) chiếc máy tính sách tay nhãn hiệu Azus, màu đen của chị Nguyễn Thị Lan A có giá trị là 12.000.000đ (Mười hai triệu đồng).

Hành vi này đã đủ yếu tố cấu thành tội "Trộm cắp tài sản”quy định tại khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự.

[3]. Về tính chất vụ án; các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Xét tính chất vụ án thuộc trường hợp ít nghiêm trọng; nhưng hành vi phạm tội của bị cáo nguy hiểm, đã xâm phạm đến quyền sở hữu tài sản được pháp luật bảo vệ và gây mất trật tự trị an đên địa bàn. Bản thân bị cáo đang có 1 tiền án về tội Trộm cắp tài sản, phạm tội trong thời gian thử thách do đó cần xét xử nghiêm và cách ly bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian để cải tạo, giáo dục bị cáo và phòng ngừa chung trong xã hội.

Tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Trong quá trình điều tra, truy tố và xét xử bị cáo đã có thái độ thành khẩn khai báo, tỏ ra ăn năn hối cải; đã đến cơ quan điều tra đầu thú. Tại phiên tòa người bị hại xin xem xét giảm nhẹ hình hạt cho bị cáo, các tình tiết giảm nhẹ này được quy định tại điểm s khoản 1; khoản 2 Điều 51 BLHS năm 2015 nên cần được áp dụng cho bị cáo để thể hiện sự khoan hồng của pháp luật.

Tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: bị cáo có tình tiết tăng nặng là tái phạm được quy định tại điểm h, khoản 2 Điều 52 Bộ luật hình sự.

[4]. Về trách nhiệm dân sự: Chị Nguyễn Thị Lan A đã nhận lại tài sản, không yêu cầu gì về dân sự nên Hội đồng xét xử không xem xét. Anh Nguyễn Trọng H đã nhận được số tiền 2.300.000 đồng (Hai triệu, ba trăm nghìn đồng), không yêu cầu gì thêm nên Hội đồng xét xử không xem xét.

Chị Nguyễn Thị H yêu cầu Nguyễn Đức C trả 2.100.000 đồng tiền thuê phòng nghỉ. Xét yêu cầu này không liên quan đến vụ án nhưng tại phiên tòa bị cáo Nguyễn Đức C chấp nhận trả cho chị H khoản tiền thuê phòng nghỉ 2.100.000 đồng, nội dung này không trái quy định nên được chấp nhận.

[5]. Về vật chứng vụ án: Quá trình điều tra, cơ quan điều tra đã trả lại các vật chứng cho chủ sở hữu, các quyết định này đã đúng quy định của pháp luật.

[6]. Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào:

- Khoản 1 Điều 173; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; điểm g khoản 1 điều 52 của Bộ luật hình sự năm 2015; điều 584,589 Bộ luật dân sự năm 2015.

- Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự; điểm a, khoản 1, Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Uỷ ban thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Toà án.

1. Tuyên bố bị cáo Nguyễn Đức C phạm tội "Trộm cắp tài sản”.

Xử phạt: Bị cáo Nguyễn Đức C 15 ( mười lăm ) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày tạm giữ, tạm giam (ngày 02/11/2018)

2. Về trách nhiệm dân sự: Buộc bị cáo Nguyễn Đức C bồi thường cho người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan chị Nguyễn Thị H khoản thiệt hại là 2.100.000 đồng (hai triệu một trăm ngàn đồng).

Kể từ ngày bản án có hiệu lực pháp luật hoặc người được thi hành án có đơn yêu cầu thi hành án dân sự, nếu không thi hành thì hàng tháng người phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi suất theo mức lãi suất quy định tại khoản 2 điều 468 Bộ luật dân sự tương ứng với số tiền và thời gian chưa thi hành án.

3. Về án phí: Bị cáo Nguyễn Đức C phải chịu 200.000 (hai trăm nghìn) đồng án phí hình sự sơ thẩm 400.000 (bốn trăm nghìn) đồng án phí dân sự sơ thẩm.

3. Bị cáo được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Bị hại được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

234
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 98/2018/HSST ngày 28/12/2018 về tội trộm cắp tài sản

Số hiệu:98/2018/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Nghi Lộc - Nghệ An
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 28/12/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về