TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN THẠCH THẤT, THÀNH PHỐ HÀ NỘI.
BẢN ÁN 98/2018/HSST NGÀY 22/11/2018 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN
Ngày 22 tháng 11 năm 2018, tại trụ sở Toà án nhân dân huyện Thạch Thất, Thành phố Hà Nội xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 99/2018/HSST ngày 31 tháng10 năm 2018 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 101/2018/QĐXXST-HS ngày 08 tháng 11 năm 2018, đối với bị cáo:
Nguyễn Dũng Th, sinh năm 1992, Nơi đăng ký hộ khẩu thường trú: Xã B, huyện T, Thành phố H; nơi cư trú: Thôn L, xã B, huyện T, Thành phố H; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hóa: 9/12; giới tính: Nam, dân tộc: Kinh; quốc tịch: Việt Nam; tôn giáo: Không; con ông Nguyễn Văn C (Đã chết) và bà Phùng Thị S; vợ: Đào Thị Diễm H (Đã ly hôn năm 2016); con: Có 01 con sinh năm 2015; tiền sự: Không; tiền án: Có 01 tiền án, bản án hình sự sơ thẩm số 68/2017/HSST ngày 26/9/2017 của Tòa án nhân dân huyện Thạch Thất xử phạt bị cáo Nguyễn Dũng Th 12 tháng tù về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”. Ngày 04/7/2018 bị cáo Th chấp hành xong hình phạt tù (Chưa được xóa án tích). Bị bắt tạm giữ ngày 16/8/2018, tạm giam ngày 24/8/2018, hiện đang bị tạm giam tại Trại tạm giam số I- Công an Thành phố Hà Nội. Có mặt.
Bị hại: Hợp tác xã nông nghiệp xã B. Địa chỉ: Xã B, huyện T, Thành phố H.
Người đại diện hợp pháp của bị hại: Ông Trần Văn T, là Chủ tịch Hội đồng quản trị Hợp tác xã nông nghiệp xã B. Vắng mặt.
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:
Bà Phùng Thị S, sinh năm 1965.
Trú tại: Thôn L, xã B, huyện T, Thành phố H. Có mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Qua các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và quá trình xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau: Bị cáo Nguyễn Dũng Th là đối tượng đã có tiền án, mới ra tù ngày 04/7/2018, do không có công việc làm ổn định, để có tiền tiêu xài cá nhân, Th nảy sinh ý định trộm cắp tài sản để bán lấy tiền. Khoảng 00 giờ 05 phút ngày 16/8/2018, lợi dụng đêm khuya, vắng người qua lại nên Th đã điều khiển xe mô tô nhãn hiệu Honda, loại xe Wave màu đỏ, đeo biển kiểm soát 30K8-1988 mang theo 01 con dao phay cũ bằng kim loại, chuôi bằng gỗ, dao dài 40cm, đi từ nhà đến khu tái định cư L thuộc thôn L, xã B, huyện T, Thành phố Hà Nội để trộm cắp dây cáp điện bằng đồng. Khi đến nơi Th dừng xe trước đường điện hạ thế của khu tái định cư L do Hợp tác xã Nông nghiệp xã B quản lý. Bị cáo Th cầm theo dao phay, trèo lên cột điện số 20 dùng dao chặt và cắt đứt 02 dây cáp điện rơi xuống đất rồi trèo xuống, Th đi đến cột điện số 21 tiếp tục dùng dao chặt, cắt đứt 02 đoạn dây cáp điện rời khỏi hệ thống dây dẫn. Th vứt con dao phay ở ven đường, cách cột điện số 21 khoảng 3m rồi cuộn tròn dây điện đưa lên xe mô tô mang đi tiêu thụ. Khi Th đi đến địa bàn thôn 6, xã Thạch Hòa, huyện Thạch Thất thì bị lực lượng Công an xã Thạch Hòa đi tuần tra phát hiện, bắt giữ.
Vật chứng thu giữ gồm:
- 01 (một) cuộn dây cáp điện vỏ màu đen, lõi đồng, loại 06/1KV CU/PVC CX75 nặng 67kg, tổng chiều dài 114m.
- 01 (một) con dao phay bằng kim loại, chuôi dao bằng gỗ, dao dài 40cm, đã qua sử dụng.
- 01 (một) xe mô tô Honda Wave màu đỏ, BKS: 30K8-1988, Số máy: 5165847, Số khung: 55810 đã qua sử dụng.
Tại Bản kết luận định giá tài sản số 44 /KL-HĐĐG, ngày 20/8/2018 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự huyện Thạch Thất kết luận giá trị của 114 mét dây cáp điện vỏ màu đen, lõi đồng loại 06/1KV CU/PVC CX75 là 2.695.000đ (Hai triệu sáu trăm chín mươi lăm nghìn đồng).
Đối với xe mô tô Honda Wave màu đỏ, đeo biển kiểm soát: 30K8-1988, Số máy: 5165847, Số khung: 55810 là của anh Nguyễn Vĩnh Ph (Anh trai bị cáo Th) do bị cáo Th tự ý lấy xe của anh Ph để đi trộm cắp tài sản. Vì anh Ph không biết việc trộm cắp tài sản của Th nên Cơ quan điều tra đã trả lại xe mô tô trên cho anh Ph. Xe mô tô này có biển kiểm soát hợp pháp theo đăng ký là 29U6- 5335, nhưng trong quá trình sử dụng xe anh Ph bị tai nạn rơi mất biển kiểm soát 29U6- 5335, sau đó anh Ph nhặt được biển kiểm soát: 30K8-1988 rơi trên đường và lắp vào xe của mình để sử dụng.
Đối với biển kiểm soát 30K8-1988 là biển số giả, nên Cơ quan điều tra đã tịch thu và tiêu hủy.
Về dân sự: Hợp tác xã nông nghiệp xã B đã nhận lại toàn bộ số dây điện bị trộm cắp và không yêu cầu bị cáo Th bồi thường thiệt hại nữa.
Tại phiên tòa, bị cáo Nguyễn Dũng Th khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình như đã nêu trên.
Bản cáo trạng số 99/CT- VKS-TT ngày 29/10/2018 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Thạch Thất, Thành phố Hà Nội truy tố bị cáo Nguyễn Dũng Th về tội “ Trộm cắp tài sản” theo Khoản 1 Điều 173 của Bộ luật Hình sự.
Đại diện Viện kiểm sát giữ quyền công tố tại phiên tòa vẫn giữ nguyên quan điểm truy tố, đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố bị cáo Nguyễn Dũng Th phạm tội “ Trộm cắp tài sản ”; đề nghị áp dụng Khoản 1 Điều 173; Điều 38; Điểm s Khoản 1 Điều 51; Điểm h Khoản 1 Điều 52 của Bộ luật Hình sự để xử phạt bị cáo Nguyễn Dùng Th từ 12 đến 18 tháng tù.
Về vật chứng: 01 (một) con dao phay bằng kim loại, chuôi dao bằng gỗ, dao dài 40cm, đã cũ, giá trị sử dụng thấp. Bà Phùng Thị S (Mẹ bị cáo Th) không nhận lại dao nữa nên được tiêu hủy.
Về trách nhiệm dân sự: Không phải xem xét.
NHẬN ĐỊNH CỦA HỘI ĐỒNG XÉT XỬ
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:
[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện Thạch Thất, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Thạch Thất, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo, bị hại, người có quyền lợi liên quan không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.
[2] Tại phiên toà, bị cáo Nguyễn Dũng Th đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội như nội dung bản án đã nêu. Lời khai của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai của bị cáo tại Cơ quan điều tra, phù hợp với vật chứng thu giữ và các tài liệu chứng cứ có trong hồ sơ. Hội đồng xét xử có đủ căn cứ kết luận: Do lười lao động, thích ăn chơi nên Nguyễn Dũng Th đã nảy sinh ý định trộm cắp tài sản để có tiền tiêu xài. Khoảng 00 giờ 05 phút ngày 16/8/2018, lợi dụng đêm khuya, không có người qua lại, Nguyễn Dũng Th đã có hành vi lén lút dùng dao chặt đứt 114m dây điện loại 06/1KV CU/PVC CX75 có trọng lượng 67kg tại cột điện số 20 và số 21 đường điện hạ thế ở khu tái định cư L, xã B do Hợp tác xã nông nghiệp xã B quản lý. Khi bị cáo Th mang số dây điện trộm cắp được đi tiêu thụ thì bị Công an xã Thạch Hòa đi tuần tra bắt giữ. Số dây điện Nguyễn Dũng Th trộm cắp có giá trị là 2.695.000đ (Hai triệu sáu trăm chín mươi lăm nghìn đồng).
Hành vi nêu trên của bị cáo Nguyễn Dũng Th đã phạm tội “ Trộm cắp tài sản” theo quy định tại Khoản 1 Điều 173 của Bộ luật Hình sự. Tại thời điểm phạm tội, bị cáo Nguyễn Dũng Th có đủ năng lực trách nhiệm hình sự. Do vậy, Viện kiểm sát nhân dân huyện Thạch Thất truy tố bị cáo về tội danh và điều luật nêu trên là có căn cứ và đúng pháp luật.
Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm đến quyền sở hữu tài sản của Hợp tác xã nông nghiệp xã B, ảnh hưởng đến tình hình trật tự trị an ở địa phương. Tại bản án hình sự số 68/2017/HSST ngày 26/9/2017 của Tòa án nhân dân huyện Thạch Thất xử phạt bị cáo Nguyễn Dũng Th 12 tháng tù về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” nhưng bị cáo không lấy đó làm bài học rèn luyện bản thân mà tiếp tục phạm tội, nên cần có hình phạt nghiêm cách ly bị cáo khỏi đời sống xã hội một thời gian mới có điều kiện giáo dục bị cáo thành người tốt và phòng ngừa tội phạm nói chung.
[3] Về tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:
Tình tiết tăng nặng: Do bị cáo Th chưa được xóa án tích đối với bản án hình sự số 68/2017/HSST ngày 26/9/2017 của Tòa án nhân dân huyện Thạch Thất nên lần này bị cáo phạm tội thuộc trường hợp tái phạm, là tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự theo Điểm h Khoản 2 Điều 52 của Bộ luật Hình sự.
Tình tiết giảm nhẹ: Tại Cơ quan điều tra và tại phiên toà hôm nay, bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, đây là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại Điểm s Khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự.
[4] Về hình phạt bổ sung: Bị cáo là người lao động tự do, không có thu nhập ổn định, kinh tế khó khăn nên miễn hình phạt bổ sung cho bị cáo.
[5] Về trách nhiệm dân sự: Hợp tác xã nông nghiệp xã B đã nhận lại toàn bộ số dây điện bị trộm cắp và không yêu cầu bị cáo Th bồi thường thiệt hại nên không phải xem xét.
[6] Về xử lý vật chứng: 01 (một) con dao phay bằng kim loại, chuôi dao bằng gỗ, dao dài 40cm, đã cũ, giá trị sử dụng thấp. Đây là tài sản của bà Phùng Thị S (Mẹ bị cáo Th), bà S không biết Th sử dụng dao vào mục đích trộm cắp tài sản nên trả lại cho bà S con dao này nhưng do bà S không nhận lại dao nữa nên được tiêu hủy.
Đối với xe mô tô Honda Wave màu đỏ, số máy: 5165847, số khung: 55810 là của anh Nguyễn Vĩnh Ph, do bị cáo Th tự ý lấy xe của anh Ph để đi trộm cắp tài sản. Anh Ph không biết việc trộm cắp tài sản của Th nên Cơ quan điều tra đã trả lại xe mô tô trên cho anh Ph là đúng pháp luật.
Đối với biển kiểm soát 30K8-1988 là biển số giả do anh Ph nhặt được trên đường và lắp vào xe của mình để sử dụng, nên Cơ quan điều tra đã tịch thu và tiêu hủy là đúng pháp luật.
[7] Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Tuyên bố bị cáo Nguyễn Dũng Th phạm tội “ Trộm cắp tài sản”.
Áp dụng Khoản 1 Điều 173; Điểm s Khoản 1 Điều 51; Điểm h Khoản 1 Điều 52 của Bộ luật Hình sự, xử phạt bị cáo Nguyễn Dũng Th 15 (Mười lăm) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày 16/8/2018.
Xử lý vật chứng: Căn cứ Điểm a Khoản 2 Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự, tiêu hủy 01 (một) con dao phay bằng kim loại, chuôi dao bằng gỗ, dao dài 40cm, theo biên bản giao nhận tài sản tang vật số 11/2019/THA ngày 15/11/2018 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Thạch Thất.
Về án phí: Căn cứ Khoản 2 Điều 135; Khoản 2 Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015, Điểm a Khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội về án phí, lệ phí Tòa án. Bị cáo Nguyễn Dũng Th phải chịu 200.000đ (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.
Quyền kháng cáo: Căn cứ các điều 331, 333 của Bộ luật Tố tụng hình sự. Bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Bị hại có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày được giao nhận bản án hoặc bản án được niêm yết hợp lệ. Người có quyền lợi liên quan có quyền kháng cáo phần bản án liên quan đến quyền lợi của mình trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.
Bản án 98/2018/HSST ngày 22/11/2018 về tội trộm cắp tài sản
Số hiệu: | 98/2018/HSST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Thạch Thất - Hà Nội |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 22/11/2018 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về