TÒA ÁN NHÂN DÂN THỊ XÃ DĨ AN, TỈNH BÌNH DƯƠNG
BẢN ÁN 98/2017/DSST NGÀY 23/08/2017 VỀ TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG TÍN DỤNG
Ngày 23 tháng 8 năm 2017, tại Tòa án nhân dân thị xã Dĩ An, tỉnh Bình Dương xét xử sơ thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số 282/2017/TLST-DS ngày 17/5/2017 về việc “Tranh chấp hợp đồng tín dụng” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 107/2017/QĐXXST-DS ngày 04/8/2017, giữa các đương sự:
1. Nguyên đơn: Ngân hàng Thương mại cổ phần V.
Địa chỉ: Tầng 1-7 tòa nhà Thủ Đô, số 72, phố T, phường Đ, quận H, thành phố Hà Nội.
Người đại diện hợp pháp của nguyên đơn: Ông Phan Thúc Đ, sinh năm 1988; địa chỉ: Lầu 5, Tòa nhà 144 Cộng Hòa, Phường K, quận T, Thành phố Hồ Chí Minh, là người đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn (văn bản ủy quyền ngày 08/3/2017), có yêu cầu giải quyết vắng mặt.
2. Bị đơn: Bà Lê Thị Ngọc C, sinh năm 1960.
Thường trú: 11/8 khu phố T, phường B, thị xã D, tỉnh Bình Dương, có yêu cầu giải quyết vắng mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN
- Theo đơn khởi kiện ngày 08/3/2017 và lời khai trong quá trình giải quyết vụ án người đại theo ủy quyền của nguyên đơn là ông Phan Thúc Đ trình bày:
Ngày 10/7/2014, bà Lê Thị Ngọc C ký “Đơn đề nghị mở tài khoản, phát hành thẻ ghi nợ, vay vốn kiêm hợp đồng tín dụng” số 20140716-104007-0002 với Ngân hàng Thương mại cổ phần V (gọi tắt là Ngân hàng) vay số tiền 15.750.000 đồng (mười lăm triệu, bảy trăm năm mươi nghìn đồng) với lãi suất 3.75%/tháng để tiêu dùng cá nhân. Theo thỏa thuận tại hợp đồng, bà Lê Thị Ngọc C có trách nhiệm thanh toán số tiền 28.934.000 đồng (gồm cả gốc và lãi), trả chậm trong 36 tháng, 35 tháng đầu mỗi tháng trả số tiền 805.000 đồng, tháng cuối cùng trả 759.000 đồng. Thanh toán vào ngày 18 hàng tháng, bắt đầu từ ngày 18/08/2014.
Thực hiện hợp đồng, bà Lê Thị Ngọc C đã nhận đủ số tiền vay và thanh toán cho Ngân hàng 09 lần cả gốc và lãi với số tiền 7.635.000 đồng. Kể từ ngày 24/6/2015, bà Lê Thị Ngọc C không thanh toán bất cứ khoản tiền nào dù Ngân hàng đã dùng nhiều biện pháp nhắc nhở.
Trong đơn đề nghị mở tài khoản, phát hành thẻ ghi nợ, vay vốn kiêm hợp đồng tín dụng có ghi tên ông Trần Văn L (là chồng bà C) và anh Trần Lê Duy P (là con bà C) mục đích để tham chiếu và thuận tiện liên lạc, ông L và anh P không ký tên vay tiền. Nay, Ngân hàng yêu cầu bà Lê Thị Ngọc C trả tiền nợ một lần với số tiền là 20.889.945 đồng, trong đó bao gồm: 17.320.000 đồng số tiền nợ gốc, lãi đến hạn và 3.569.945 đồng nợ gốc chưa đến hạn.
- Bị đơn bà Lê Thị Ngọc C vắng mặt tại phiên tòa nhưng tại bản tự khai ngày 26/5/2017 và lời khai trong quá trình tố tụng bà Lê Thị Ngọc C trình bày:
Bà C thống nhất với nội dung trình bày của người đại diện hợp pháp của Ngân hàng về số tiền đã vay, quá trình trả nợ. Tuy nhiên, trong quá trình trả nợ bà C gặp khó khăn nên không tiếp tục trả nợ vay cho Ngân hàng. Nay trước yêu cầu khởi kiện của Ngân hàng bà C đồng ý trả số nợ 20.889.945 đồng cho Ngân hàng, nhưng do hoàn cảnh khó khăn nên xin trả dần số nợ trên bằng cách mỗi tháng trả 500.000 đồng.
- Ý kiến của đại diện Viện kiểm sát nhân dân thị xã Dĩ An, tỉnh Bình Dương tham gia phiên tòa: Quá trình tố tụng, Thẩm phán, Hội đồng xét xử và đương sự đã chấp hành và tuân theo pháp luật đúng quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự. Về nội dung vụ án, xét thấy yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn Ngân hàng thương mại cổ phần V đối với bị đơn bà Lê Thị Ngọc C là có cơ sở chấp nhận nên đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giải quyết.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án đã được xem xét tại phiên tòa, Tòa án nhận định:
[1] Ngân hàng thương mại cổ phần V khởi kiện yêu cầu bà Lê Thị Ngọc C có địa chỉ tại khu phố T, phường B, thị xã D, tỉnh Bình Dương phải trả số tiền nợ 20.889.945 đồng phát sinh từ “Đơn đề nghị mở tài khoản, phát hành thẻ ghi nợ, vay vốn kiêm hợp đồng tín dụng” số 20140716-104007-0002 ngày 10/7/2014. Vì vậy, đây là vụ án “Tranh chấp hợp đồng tín dụng” thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân thị xã Dĩ An, tỉnh Bình Dương được quy định tại khoản 3 Điều 26, điểm a khoản 1 Điều 39 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015.
[2] Về thời hiệu khởi kiện: Theo quy định tại Điều 429 Bộ luật Dân sự năm 2015 thì “Thời hiệu khởi kiện....tranh chấp hợp đồng là 03 năm, kể từ ngày người có quyền yêu cầu biết hoặc phải biết quyền và lợi ích hợp pháp của mình bị xâm phạm”. Từ ngày 24/6/2015, bà Lê Thị Ngọc C không thanh toán tiền gốc và lãi theo thỏa thuận. Ngày 12/5/2017, Ngân hàng khởi kiện yêu cầu thanh toán số tiền còn nợ nên thời hiệu khởi kiện tranh chấp hợp đồng tín dụng vẫn còn.
[3] Người đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn ông Phan Thúc Đ và bị đơn bà Lê Thị Ngọc C có đơn yêu cầu xét xử vắng mặt. Vì vậy, Căn cứ Điều 228 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015, Tòa án xét xử vắng mặt các đương sự trên.
[4] Xét “Đơn đề nghị mở tài khoản, phát hành thẻ ghi nợ, vay vốn kiêm hợp đồng tín dụng” số 20140716-104007-0002 ngày 10/7/2014 được giao kết giữa Ngân hàng với bà C đã thể hiện ý chí tự nguyện thỏa thuận giữa hai bên. Quá trình thực hiện hợp đồng, bà C mới thanh toán cho Ngân hàng được 09 lần với số tiền 7.635.000 đồng. Kể từ ngày 24/6/2015 đến thời điểm Ngân hàng khởi kiện, bà C không thanh toán tiếp số tiền nợ đến hạn, như vậy bà C đã vi phạm nghĩa vụ trả tiền gốc và lãi theo thỏa thuận. Số tiền nợ và quá trình trả nợ cũng được bà Lê Thị Ngọc C thừa nhận nên đây là tình tiết chứng cứ không cần phải chứng minh theo quy định tại khoản 2 Điều 92 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015. Vì vậy, Ngân hàng khởi kiện yêu cầu bà C phải trả số nợ trả số nợ đến hạn và khoản nợ chưa đến hạn với số tiền 20.889.945 đồng là có căn cứ chấp nhận.
[5] Đối với yêu cầu của bà C đề nghị Ngân hàng cho trả dần số nợ trên nhưng Ngân hàng không đồng ý nên không có cơ sở chấp nhận. Do “Đơn đề nghị mở tài khoản, phát hành thẻ ghi nợ, vay vốn kiêm hợp đồng tín dụng” không thỏa thuận về lãi quá hạn nên để bảo đảm quyền lợi của bên được thi hành án, trong trường hợp này bên phải thi hành án chậm thanh toán đối với nghĩa vụ trả tiền, cần buộc bên có nghĩa vụ trả tiền phải có trách nhiệm trả tiền lãi theo mức lãi suất quy định tại khoản 2 Điều 468 Bộ luật Dân sự năm 2015.
[6] Từ những phân tích trên, có căn cứ chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.
[7] Lời đề nghị của vị đại diện Viện kiểm sát nhân dân thị xã Dĩ An là phù hợp như những phân tích nêu trên.
[8] Về án phí dân sự sơ thẩm: Bà Lê Thị Ngọc C phải chịu theo quy định của Điều 147 Bộ luật Tố tụng Dân sự năm 2015 và Khoản 2 Điều 26 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy Ban thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ vào Điều 144, Điều 147, Điều 228, Điều 238 và Điều 273 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015;
Căn cứ Điều 357 và khoản 2 Điều 468 của Bộ luật Dân sự năm 2015;
Căn cứ Điều 91 và Điều 95 của Luật Các tổ chức tín dụng năm 2010;
Căn cứ khoản 2 Điều 26 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
1. Buộc bà Lê Thị Ngọc C có trách nhiệm thanh toán cho Ngân hàng thương mại cổ phần V số tiền 20.889.945 đồng (hai mươi triệu tám trăm tám mươi chín nghìn chín trăm bốn mươi lăm đồng) còn nợ phát sinh từ “Đơn đề nghị mở tài khoản, phát hành thẻ ghi nợ, vay vốn kiêm hợp đồng tín dụng” số 20140716-104007-0002 ngày 10/7/2014.
Kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án cho đến khi thi hành án xong, tất cả các khoản tiền, hàng tháng bên phải thi hành án còn phải chịu tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất quy định tại khoản 2 Điều 468 Bộ luật Dân sự năm 2015.
2. Án phí dân sự sơ thẩm: Bà Lê Thị Ngọc C phải chịu 1.044.497 đồng (một triệu không trăm bốn mươi bốn nghìn bốn trăm chín mươi bảy đồng). Hoàn trả cho Ngân hàng thương mại cổ phần V số tiền 523.000 đồng (năm trăm hai mươi ba nghìn đồng) tạm ứng án phí đã nộp theo biên lai thu tiền số 0009360 ngày 16/5/2017 của Chi cục thi hành án Dân sự thị xã Dĩ An.
3. Ngân hàng thương mại cổ phần V và bà Lê Thị Ngọc C vắng mặt được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày, kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.
Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự./.
Bản án 98/2017/DSST ngày 23/08/2017 về tranh chấp hợp đồng tín dụng
Số hiệu: | 98/2017/DSST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Thành phố Dĩ An - Bình Dương |
Lĩnh vực: | Dân sự |
Ngày ban hành: | 23/08/2017 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về