Bản án 97/2021/HS-ST ngày 28/06/2021 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN THỊ XÃ BẾN CÁT, TỈNH BÌNH DƯƠNG

BẢN ÁN 97/2021/HS-ST NGÀY 28/06/2021 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 28 tháng 6 năm 2021, tại trụ sở, Tòa án nhân dân thị xã Bến Cát, tỉnh Bình Dương xét xử công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 111/2021/HSST ngày 18 tháng 6 năm 2021 theo Quyết đinh đưa vụ án ra xét xử số 95/2021/QĐXXST–HS ngày 18 tháng 6 năm 2021 đối với bị cáo:

Nguyễn Tấn T, sinh năm 1997, tại tỉnh Bình Dương; hộ khẩu thường trú: Khu phố 2, phường ThH, thị xã BC, tỉnh BD; nơi ở hiện nay: Khu phố 2, phường ThH, thị xã BC, tỉnh BD; nghề nghiệp: Không; trình độ văn hóa: 05/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn Thanh T, sinh năm 1972 và bà Nguyễn Thị M, sinh năm 1973; bị cáo có 03 anh em, lớn nhất là bị cáo, nhỏ nhất sinh năm 2005.

Tiền sự: Không.

Tiền án: Ngày 05/3/2019, bị Tòa án nhân dân thị xã Bến Cát, tỉnh Bình Dương xử phạt 06 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản” theo Bản án số 31/2019/HS-ST ngày 05/3/2019. Chấp hành xong hình phạt tù ngày 01/9/2019, chấp hành xong án phí ngày 04/9/2019.

Ngày 28/02/2021, thực hiện hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy bị bắt quả tang, tạm giữ đến ngày 10/3/2021 thì chuyển sang tạm giam tại Nhà tạm giữ Công an thị xã Bến Cát cho đến nay. (có mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 21 giờ 40 phút, ngày 28/02/2021, Đội Cảnh sát điều tra tội phạm về Kinh tế - Ma túy, Công an thị xã Bến Cát phối hợp cùng Công an phường Mỹ Phước, thị xã Bến Cát tuần tra trên tuyến đường N1 thuộc khu phố 4, phường Mỹ Phước, thị xã Bến Cát, tỉnh Bình Dương. Khi đi đến Cửa hàng Điện Máy Xanh Nhân Ngọc thì phát hiện Nguyễn Tấn T đang đứng trên lề đường có biểu hiện nghi vấn nên yêu cầu kiểm tra. Qua kiểm tra phát hiện trong lòng bàn tay trái của T có 01 đoạn ống hút nhựa, bên trong chứa chất tinh thể màu trắng, T khai là ma túy đá. Cơ quan Công an tiến hành lập biên bản bắt người phạm tội quả tang và đưa T về trụ sở Công an phường Mỹ Phước làm việc. Đồng thời, thu giữ: 01 đoạn ống hút nhựa màu trắng, hàn kín hai đầu bên trong chứa tinh thể màu trắng.

Tại Cơ quan điều tra, Nguyễn Tấn T khai nhận: T là đối tượng sử dụng trái phép chất ma túy từ khoảng đầu năm 2020 cho đến ngày bị bắt. Nguồn ma túy mà T có để sử dụng là thông qua mạng xã hội Facebook để liên lạc mua nhiều lần của đối tượng tên B (chưa rõ nhân thân, lai lịch) với giá từ 100.000 đồng đến 200.000 đồng đem về sử dụng.

Khoảng 19 giờ ngày 28/02/2021, T điện thoại cho B qua ứng dụng Facebook hỏi mua 100.000 đồng ma túy đá thì B đồng ý, hẹn giao dịch tại khu vực trước Trường trung học cơ sở Thới Hòa thuộc phường Thới Hòa, thị xã Bến Cát, tỉnh Bình Dương. B chỉ cho T biết ma túy được cất trong khẩu trang màu xanh để cạnh thùng rác đặt gần cổng trường, kêu T đến nhận ma túy và để lại tiền cho B. T làm theo chỉ dẫn và lấy được 01 đoạn ống hút hàn kín chứa ma túy trong khẩu trang y tế màu xanh, sau đó đi nhờ xe của người đi đường về đến đường D7 thuộc khu phố 4, phường Mỹ Phước. Tại đây, T gặp bạn tên Ng (chưa rõ nhân thân, lai lịch) nên rủ đi uống cà phê thì Ng đồng ý. Ng điều khiển xe mô tô hiệu Raider không rõ biển số chở T cầm khẩu trang có giấu ma túy trong lòng bàn tay trái đi đến đường N1, khu phố 4, phường Mỹ Phước thì thấy lực lượng Công an đang tuần tra, do T không đội nón B hiểm nên Ng kêu T xuống xe còn Ng bỏ chạy đi mất. Sau đó, lực lượng Công an đến kiểm tra hành chính, phát hiện, bắt quả tang T đang tàng trữ trái phép chất ma túy nhằm mục đích sử dụng.

Tại Bản kết luận giám định số 110/MT-PC09 ngày 09/3/2021 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Bình Dương kết luận: Mẫu tinh thể gửi giám định là ma túy, có trọng lượng/khối lượng là 0,1272gam, loại Methamphetamine.

Tại bản Cáo trạng số 114/CT-VKSBC ngày 16 tháng 6 năm 2021 của Viện kiểm sát nhân dân thị xã Bến Cát đã truy tố bị cáo Nguyễn Tấn T về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017.

Qua tranh tụng công khai tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát giữ nguyên quan điểm kết tội bị cáo theo tội danh, điều luật như bản Cáo trạng số 114/CT-VKSBC ngày 16 tháng 6 năm 2021 của Viện kiểm sát nhân dân thị xã Bến Cát đã truy tố, đồng thời đề nghị Hội đồng xét xử: Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 và điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017, đề nghị xử phạt bị cáo Nguyễn Tấn T từ 01 (một) năm 06 (sáu) tháng đến 02 (hai) năm tù và đề nghị xử lý vật chứng liên quan vụ án theo quy định.

Tại phiên tòa, bị cáo Nguyễn Tấn T khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình như cáo trạng của Viện Kiểm sát nhân dân thị xã Bến Cát đã truy tố. Bị cáo không có ý kiến tranh luận với đại diện Viện Kiểm sát, thống nhất với tội danh, điều luật và mức hình phạt mà đại diện Viện kiểm sát đề nghị.

Lời nói sau cùng bị cáo mong Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo để có cơ hội sớm về với gia đình hòa nhập cuộc sống.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các T liệu có trong hồ sơ đã được thẩm tra và tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của người tiến hành tố tụng và cơ quan tiến hành tố tụng đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về hành vi phạm tội của bị cáo Tại phiên toà bị cáo Nguyễn Tấn T đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội tàng trữ trái phép chất ma túy của mình, lời khai nhận tội của bị cáo phù hợp với các T liệu, chứng cứ đã được thu thập có trong hồ sơ vụ án, được thẩm tra và tranh tụng tại phiên tòa. Hội đồng xét xử có đủ cơ sở kết luận: Vào khoảng 21 giờ 40 phút, ngày 28/02/2021, tại khu vực phía đối diện Cửa hàng điện máy xanh Nhân Ngọc trên đường N1 thuộc khu phố 4, phường Mỹ Phước, thị xã Bến Cát, tỉnh Bình Dương, Nguyễn Tấn T đã có hành vi tàng trữ 0,1272 gam ma túy, loại Methamphetamine nhằm mục đích sử dụng. Hành vi của bị cáo Nguyễn Tấn T đã đủ yếu tố cấu thành tội tàng trữ trái phép chất ma túy theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự năm 2005, được sửa đổi, bổ sung năm 2017.

[3] Về tính chất, các tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự, tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:

[3.1] Về tính chất: Hành vi phạm tội của bị cáo Nguyễn Tấn T là nghiêm trọng và rất nguy hiểm cho xã hội, không những trực tiếp xâm phạm đến việc quản lý độc quyền của Nhà nước về các chất ma túy, chất gây nghiện mà còn làm mất trật tự trị an xã hội, tiếp tay cho tệ nạn ma túy gia tăng. Bị cáo biết rất rõ ma túy là một tệ nạn xã hội rất nguy hiểm, không chỉ hủy hoại sức khỏe con người, là nguyên nhân lây lan và phát triển căn bệnh HIV-AIDS mà còn là nguồn gốc phát sinh ra nhiều loại tội phạm khác nhưng vì muốn thỏa mãn nhu cầu của bản thân đã lén lút họat động tàng trữ ma túy để sử dụng, bị cáo phạm tội với lỗi có ý trực tiếp. Do vậy, cần thiết phải áp dụng tội danh và hình phạt tại Điều 249 của Bộ luật Hình sự để xử phạt đối với bị cáo với mức án thật nghiêm thì mới có tác dụng giáo dục riêng và răn đe phòng ngừa chung.

[3.2] Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải được quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017.

[3.3] Tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo có 01 tiền án về tội: “Trộm cắp tài sản” chưa được xóa án tích mà còn tiếp tục phạm tội. Do đó, hành vi của bị cáo thuộc trường hợp tái phạm quy định tại điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017.

[4] Về hình phạt: Hội đồng xét xử thống nhất áp dụng hình phạt tù có thời hạn, cách ly bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian dài đủ để cất cơn nghiện, tự cải tạo, giáo dục trở thành công dân tốt, có ích cho gia đình, đồng thời răn đe và phòng ngừa chung trong toàn xã hội.

[5] Kết luận buộc tội của đại diện Viện kiểm sát về điều luật, tội danh là phù hợp. Tuy nhiên, về mức hình phạt là quá nặng so với hành vi phạm tội của bị cáo nên Hội đồng xét xử quyết định mức hình phạt thấp hơn đề nghị của đại diện Viện kiểm sát.

[6] Về xử lý vật chứng: Đối với số ma túy còn lại sau giám định, trọng lượng 0,0889 gam ma túy loại Methamphetamine đây là chất cấm lưu hành nên tịch thu tiêu hủy.

[7] Đối với đối tượng tên B là người bán ma túy cho Nguyễn Tấn T và đối tượng tên Ng là người đi chung với T, do chưa xác định được nhân thân, lai lịch nên không đề cập xem xét, xử lý và khi nào xác định được sẽ tiến hành điều tra làm rõ, xử lý sau của Cơ quan cảnh sát điều tra là có căn cứ chấp nhận.

[8] Về án phí: Bị cáo phải chịu theo quy định của pháp luật. Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố bị cáo Nguyễn Tấn T phạm tội: “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

1. Về hình phạt: Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 và điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017.

Xử phạt bị cáo Nguyễn Tấn T 01 (một) năm 04 (bốn) tháng tù. Thời hạn tù tính từ 28/02/2021.

2. Về xử lý vật chứng: Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự năm 2015, được sửa đổi, bổ sung năm 2017 và điểm a khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015:

Tịch thu tiêu hủy 01 Bì thư được niêm phong bên ngoài ghi số 110/PC09 có hình dấu đỏ của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Bình Dương, bên trong chứa 0,0889 gam ma túy loại Methamphetamine (theo kết luận giám định số 110/MT- PC09, ngày 09/3/2021, biên bản đóng gói, niêm phong và giao nhận lại đối tượng giám định ngày 01/3/2021) Vật chứng được thể hiện tại Biên bản giao, nhận vật chứng ngày 22/6/2021 tại Chi cục Thi hành án dân sự thị xã Bến Cát giữa Công an thị xã Bến Cát và Chi cục Thi hành án dân thị xã Bến Cát, tỉnh Bình Dương.

3. Về án phí: Căn cứ các Điều 135; 136 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015; Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Bị cáo Nguyễn Tấn T phải chịu 200.000 đồng (hai trăm nghìn đồng) tiền án phí hình sự sơ thẩm.

4. Về quyền kháng cáo: Bị cáo có mặt được quyền kháng cáo Bản án trong thời hạn 15 (mười lăm) ngày, kể từ ngày tuyên án./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

221
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 97/2021/HS-ST ngày 28/06/2021 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:97/2021/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thị xã Bến Cát - Bình Dương
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 28/06/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về