TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN T, THÀNH PHỐ HẢI PHÒNG
BẢN ÁN 97/2021/HNGĐ-ST NGÀY 10/06/2021 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON
Ngày 10 tháng 6 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện T, thành phố Hải Phòng xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 22/2021/TLST-HNGĐ ngày 15 tháng 01 năm 2021 về việc “ly hôn, tranh chấp về nuôi con” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 74/2021/QĐXXST-HNGĐ ngày 12 tháng 5 năm2021 và Quyết định hoãn phiên tòa số: 80/2021/QĐST- HNGĐ ngày 03 tháng 6 năm 2021, giữa các đương sự:
- Nguyên đơn: Anh Trần Bá L, sinh năm 1982; địa chỉ: Thôn 5, xã C, huyện T, thành phố Hải Phòng; vắng mặt và có đơn đề nghị xét xử vắng mặt.
- Bị đơn: Chị Vũ Thị L, sinh năm 1986; địa chỉ: Thôn 5, xã C, huyện T, thành phố Hải Phòng; vắng mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Trong đơn khởi kiện đề ngày 29/12/2020 và các lời khai tại Tòa án, nguyên đơn là anh Trần Bá L trình bày:
1. Về hôn nhân:
Anh L và chị Vũ Thị L kết hôn với nhau vào năm 2012 trên cơ sở tìm hiểu tự nguyện, tự do tìm hiểu và được hai bên gia đình tổ chức lễ cưới theo phong tục địa phương và có đăng ký kết hôn theo giấy chứng nhận kết hôn số 65 ngày 22/10/2003 tại Ủy ban nhân dân xã C, huyện T, thành phố Hải Phòng. Sau khi kết hôn, vợ chồng về chung sống cùng gia đình chồng tại xã C. Quá trình vợ chồng chung sống hạnh phúc đến năm 2012 thì vợ chồng phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân mâu thuẫn do tính cách hai bên không hòa hợp, bất đồng quan điểm sống, vợ chồng không có tiếng nói chung dẫn đến vợ chồng không còn tình cảm, không còn quan tâm đến nhau. Mâu thuẫn giữa vợ chồng đã được hòa giải nhiều lần nhưng không thành, mâu thuẫn vợ chồng anh đã trầm trọng, không còn có thể đoàn tụ với nhau được nữa, vợ chồng đã sống ly thân. Nay anh nhận thấy tình cảm vợ chồng không còn, mâu thuẫn đã trầm trọng nên anh đề nghị Tòa án giải quyết cho anh ly hôn với chị L.
2. Về con chung:
Anh L trình bày anh và chị L có 02 con chung tên là Trần Thị Thùy Dung sinh ngày 27/11/2004 và Trần Bá Quyền sinh ngày 07/7/2009. Khi ly hôn, anh có nguyện vọng được trực tiếp nuôi cả 02 con chung, về cấp dưỡng nuôi con chung, anh trình bày để vợ chồng tự thỏa thuận giải quyết với nhau và không có yêu cầu Tòa án giải quyết.
3. Về tài sản chung:
Anh L trình bày không yêu cầu Tòa án giải quyết.
Chị Vũ Thị L là bị đơn trong vụ án và đã được triệu tập hợp lệ nhiều lần, cho đến ngày mở phiên tòa lần thứ hai vẫn không có ý kiến về việc giải quyết vụ án.
Biên bản xác minh ngày 22/02/2021 và ngày 05/05/2021 và Biên bản làm việc ngày 22/02/2021 tại Ủy ban nhân dân xã C, huyện T, thành phố Hải Phòng và Công an xã C, huyện T, thành phố Hải Phòng thể hiện: Anh Trần Bá L và chị Vũ Thị L kết hôn với nhau trên cơ sở tự nguyện, có tổ chức cưới theo phong tục và có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã C, huyện T, thành phố Hải Phòng theo Giấy chứng nhận kết hôn số 65 ngày 22/10/2003. Quá trình chung sống vợ chồng hạnh phúc đến năm 2012 nảy sinh mâu thuẫn, nguyên nhân mâu thuẫn do tính cách vợ chồng không hòa hợp, bất đồng quan điểm sống, vợ chồng không có tiếng nói chung dẫn đến vợ chồng xảy ra cãi mắng, xúc phạm nhau, vợ chồng không còn tình cảm. Mâu thuẫn giữa vợ chồng đã được gia đình hòa giải nhưng không thành. Do mâu thuẫn chị L và anh L sống ly thân, chị L vẫn đang sinh sống cùng với gia đình bố mẹ đẻ của mình tại địa phương xã C. Anh L có đơn xin ly hôn, mâu thuẫn vợ chồng đã trầm trọng đề nghị Tòa án căn cứ vào pháp luật giải quyết.
Về con chung: Anh L và chị L có hai con chung tên là Trần Thị Thùy Dung sinh ngày 27/11/2004 và Trần Bá Quyền sinh ngày 07/7/2009, cả hai con chung hiện nay đang ở cùng với anh L, anh L và chị L đều có điều kiện nuôi con đề nghị Tòa án căn cứ vào pháp luật giải quyết. Về tài sản chung của vợ chồng: Địa phương không nắm được và đề nghị Tòa án căn cứ vào quy định của pháp luật giải quyết vụ án.
Kiểm sát viên phát biểu ý kiến trong quá trình giải quyết vụ án kể từ khi thụ lý vụ án cho đến trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị án thì Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa đã tuân theo đúng pháp luật tố tụng, nguyên đơn chấp hành đúng pháp luật tố tụng dân sự, bị đơn chưa chấp hành đúng. Về việc giải quyết vụ án đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ vào các điều 51, 56, 81, 82 và 83 của Luật Hôn nhân và gia đình, xử: Về hôn nhân: Cho ly hôn giữa anh Trần Bá L và chị Vũ Thị L; về con chung: Giao cho anh Trần Bá L trực tiếp nuôi các con chung tên là Trần Thị Thùy Dung sinh ngày 27/11/2004 và Trần Bá Quyền sinh ngày 07/7/2009 cho đến khi từng con chung đủ 18 tuổi và có khả năng lao động, trừ trường hợp có sự thay đổi khác theo quy định của pháp luật; sau khi ly hôn, người không trực tiếp nuôi con có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở; về cấp dưỡng nuôi con chung và về tài sản chung không yêu cầu Tòa án giải quyết nên không xem xét giải quyết; nguyên đơn phải chịu án phí dân sự sơ thẩm theo quy định.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Căn cứ vào tài liệu, chứng cứ đã được xem xét tại phiên tòa, kết quả tranh tụng tại phiên tòa, các quy định của pháp luật, Hội đồng xét xử nhận định:
[1]. Về tố tụng: Đây là vụ án tranh chấp về hôn nhân gia đình và thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện T, thành phố Hải Phòng theo quy định tại khoản 1 Điều 28, Điều 35 và Điều 39 của Bộ luật Tố tụng dân sự. Nguyên đơn là anh Trần Bá L vắng mặt tại phiên tòa có đơn đề nghị Tòa án xét xử vắng mặt, bị đơn vắng mặt tại phiên tòa không có lý do. Căn cứ khoản 1 Điều 227, Điều 228, 238 của Bộ luật Tố tụng dân sự, Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt nguyên đơn, bị đơn.
[2]. Về hôn nhân: Quan hệ hôn nhân giữa anh Trần Bá L và chị Vũ Thị L đã được xác lập là hợp pháp (Giấy chứng nhận kết hôn số 65 ngày 22/10/2003 tại Ủy ban nhân dân xã C, huyện T, thành phố Hải Phòng). Căn cứ vào lời khai của đương sự và tài liệu điều tra xác minh tại địa phương thể hiện trong quá trình chung sống vợ chồng có phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân mâu thuẫn do tính cách vợ chồng không hòa hợp, bất đồng quan điểm sống dẫn đến vợ chồng thường xuyên có xảy ra cãi mắng, xúc phạm lẫn nhau. Mâu thuẫn giữa vợ chồng đã được hòa giải nhưng không thành dẫn đến vợ chồng sống ly thân. Cho nên mâu thuẫn giữa vợ chồng đã trở nên sâu sắc, trầm trọng không thể hàn gắn tình cảm được và không còn quan tâm đến nhau. Điều đó chứng tỏ mâu thuẫn vợ chồng có tồn tại làm cho hôn nhân đã lâm vào tình trạng trầm trọng, khả năng đoàn tụ không còn, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích của hôn nhân không đạt được. Anh L yêu cầu ly hôn, căn cứ vào Điều 51 và Điều 56 của Luật Hôn nhân và gia đình xử cho ly hôn giữa anh L và chị L.
[3]. Về con chung: Anh Lvà chị L có 02 con chung tên là Trần Thị Thùy Dung sinh ngày 27/11/2004 và Trần Bá Quyền sinh ngày 07/7/2009. Khi ly hôn, anh L đề nghị được tiếp tục trực tiếp nuôi ả hai con chung. Việc giao con cho ai nuôi cần phải căn cứ vào quyền lợi về mọi mặt của con chung. Xét thấy, anh L và chị L đều có khả năng, điều kiện nuôi con chung. Con chung Trần Thị Thùy Dung và Trần Bá Quyền đều có nguyện vọng được ở với anh L khi vợ chồng ly hôn và việc nuôi con chung của anh L vẫn đang ổn định, đảm bảo quyền, lợi ích của các con chung. Do vậy, cần giao con chung Trần Thị Thùy Dung và Trần Bá Quyền cho anh L tiếp tục trực tiếp nuôi là phù hợp với các điều 81, 82, 83 của Luật Hôn nhân và gia đình.
Về cấp dưỡng nuôi con chung: Anh L không có yêu cầu Tòa án giải quyết và chị L không có trình bày quan điểm gì nên Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết.
[4]. Về tài sản chung: Anh L không có yêu cầu Tòa án giải quyết, chị L không có quan điểm trình bày gì nên Hội đồng xét xử không giải quyết trong vụ án này.
[5]. Về án phí: Anh L phải chịu 300.000 đồng án phí dân sự sơ thẩm về ly hôn.
[6]. Về quyền kháng cáo: Anh L và chị L có quyền kháng cáo bản án theo quy định của pháp luật.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ vào khoản 1 Điều 28, Điều 35, Điều 39, Điều 147, Điều 228, 238 của Bộ luật Tố tụng dân sự; Điều 51, 56, 81, 82, 83 của Luật Hôn nhân và gia đình; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội; Xử:
1. Về hôn nhân: Cho ly hôn giữa anh Trần Bá L và chị Vũ Thị L.
2. Về con chung: Giao cho anh Trần Bá L trực tiếp nuôi con chung tên là Trần Thị Thùy Dung sinh ngày 27/11/2004 và Trần Bá Quyền sinh ngày 07/7/2009 cho đến khi từng con chung đủ 18 tuổi và có khả năng lao động, trừ trường hợp có sự thay đổi khác theo quy định của pháp luật. Sau khi ly hôn, người không trực tiếp nuôi con có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở.
3. Về cấp dưỡng nuôi con chung: Anh Trần Bá L không có yêu cầu Tòa án giải quyết và chị Vũ Thị L không có trình bày quan điểm gì nên Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết.
4. Về tài sản chung: Anh Trần Bá L không có yêu cầu Tòa án giải quyết và chị Vũ Thị L không có trình bày quan điểm gì nên Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết.
5. Về án phí: Anh Trần Bá L phải chịu 300.000 đồng án phí dân sự sơ thẩm về ly hôn, được trừ vào số tiền 300.000 đồng tạm ứng án phí đã nộp theo Biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số 0015692 ngày 15 tháng 01 năm 2021 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện T, thành phố Hải Phòng. Anh Trần Bá L đã nộp đủ án phí dân sự sơ thẩm.
6. Về quyền kháng cáo: Anh Trần Bá L, chị Vũ Thị L vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.
7. Trường hợp quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự./.
Bản án 97/2021/HNGĐ-ST ngày 10/06/2021 về ly hôn, tranh chấp nuôi con
Số hiệu: | 97/2021/HNGĐ-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Tiên Lãng - Hải Phòng |
Lĩnh vực: | Hôn Nhân Gia Đình |
Ngày ban hành: | 10/06/2021 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về