TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH ĐỒNG NAI
BẢN ÁN 97/2020/HS-ST NGÀY 08/12/2020 VỀ TỘI GIẾT NGƯỜI
Ngày 08 tháng 12 năm 2020, tại trụ sở TAND tỉnh Đồng Nai, xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 96/2020/TLST-HS ngày 09 tháng 10 năm 2020 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 127/QĐXXST-HS ngày 13 tháng 11 năm 2020 đối với bị cáo:
Họ và tên:Vũ Duy Q, sinh ngày 27 tháng 7 năm 1993 tại tỉnh Đồng Nai; Nơi cư trú: Tổ X, Khu X1, thị trấn G, huyện X2, tỉnh Đồng Nai. Nghề ngH1: công nhân; Trình độ học vấn: 8/12. Dân tộc: Kinh. Giới tính: N1; Tôn giáo: Thiên chúa. Quốc tịch: Việt N1. Con ông: Vũ Văn T, sinh năm1950; và bà: Phạm Thị V, sinh năm 1957. Gia đình có 07 anh em, bị cáo là con thứ 6 trong gia đình.(Chưa có vợ, con) T4 án, T4 sự: Không.
Bị cáo đầu thú và bị tạm giữ từ ngày 15/01/2020, chuyển tạm giam theo Lệnh tạm giam số 166/LTG ngày 20/01/2020 của Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an tỉnh Đồng Nai. Hiện đang bị tạm giam tại Trại tạm giam-Công an tỉnhĐồng Nai.
- Bị hại:Anh Ngô Thành T1, sinh năm 1993 (đã chết)
1. Đại diện hợp pháp của ng ười bị hại : - Chị Huỳnh Thị Thu H, sinh năm 1997 Địa chỉ: ấp X3, xã T2, huyện C, tỉnh Đồng Nai.(Có mặt)
2. Người có quyền và nghĩa vụ liên quan:
1. Ông Ngô Đình N, sinh năm 1968 2. Bà Hồ Thị H1, sinh năm 1970 Cùng địa chỉ: Thôn S, xã V, huyện V1, tỉnh Khánh Hòa.(Có mặt) (Ông N ủy quyền cho bà H1 theo văn bản ủy quyền ngày 27/3/2020)
3. Người bào chữa theo chỉ định của bị cáo: Ông Hà Mạnh Tường, Luật sư thuộc Văn phòng Luật sư Hà Mạnh Tường – Đoàn Luật sư tỉnh Đồng Nai.
Địa chỉ: 15/8A, Bùi Trọng Nghĩa, Khu Phố X3, phường Trảng Dài, thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai.(có mặt)
NỘI DUNG VỤ ÁN
Bị cáo bị Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Đồng Nai truy tố về hành vi phạm tội như sau:
Vào khoảng 22 giờ 30 phút ngày 12/01/2020, anh Vũ Sỹ N1, sinh năm 1981 cùng em trai là Vũ Duy Q, sinh năm 1993, nơi cư trú Khu X1, thị trấn G, huyện X2, tỉnh Đồng Nai chở nhau bằng xe mô tô đi đến quán Karaoke “Trúc Nguyên” thuộc Khu phố X4, phường T5, thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai để hát Karaoke cùng nhóm bạn nhân dịp tất niên cuối năm. Trong khi hát gồm có: Vũ Sỹ N1, Vũ Duy Q, Nguyễn Văn D sinh năm 1989 và bạn gái là Nguyễn Thị Thúy H2, Phạm Ngọc N1, sinh năm 1994, Nguyễn T3, sinh năm 1988, Ngô Thành T1, sinh năm 1993, nơi cư trú thôn S, xã V, huyện V1, tỉnh Khánh Hòa và vợ của T1 là Huỳnh Thị Thu H, sinh năm 1997 cùng ba đối tượng không rõ họ và địa chỉ là T4, T5, V2. Sau khi hát xong đến khoảng 23 giờ 30 phút thì T1, N1, N1, Q, T3 và D tiếp tục đi đến quán nhậu “Phố Biển” thuộc Khu Phố X3, Phường T5, thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai để ăn uống tiếp. Trong lúc ăn uống giữa Q và anh T1 xảy ra mâu thuẫn cãi nhau, anh T1 đã cầm một cái cốc bằng thủy tinh (loại cốc có quai dùng để uống bia) đánh vào đầu của Q làm cốc bị vỡ còn Q bị chảy máu đầu, hai bên tiếp tục xông vào đánh nhau và được mọi người có mặt tại đó can ngăn. Sau đó, Q được anh trai là Vũ Sỹ N1 chở về nhà, do đầu bị chảy máu và đau nên Q tức giận lấy 01 con dao và điều khiển xe mô tô quay trở lại quán để tìm đánh T1, đến nơi Q dựng xe trước cửa quán và đi vào trong quán. Lúc này anh T1 cũng vừa ở trong quán bước ra, gặp anh T1, Q liền lấy dao đâm liên tục nhiều nhát trúng vào người anh T1 khiến anh T1 nằm gục tại chỗ, đâm xong Q lên xe bỏ đi, anh T1 được mọi người đưa đi cấp cứu tại Bệnh viện Đa khoa tỉnh Đồng Nai nhưng do vết thương nặng nên anh T1 đã tử vong. Sau khi gây án Vũ Duy Q bỏ trốn, đến ngày 15/01/2020, Vũ Duy Q đến Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an tỉnh Đồng Nai đầu thú và đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội như trên.
* Tại bản Kết luận giám định pháp y về tử thi số: 67/KLGĐ-PC09 ngày 31/01/2020 của Phòng kỹ thuật hình sự (PC09) Công an tỉnh Đồng Nai kết luận về thương tích và nguyên nhân tử vong của nạn nhân Ngô Thành T1, (sinh năm 1993) như sau:
- Nguyên nhân tử vong: Suy hô hấp, tuần hoàn cấp do vết thương thấu ngực rách thùy phổi và động tĩnh mạch phế quản.
- Hung khí: Vật sắc nhọn.
* Tại Bản kết luận giám định pháp y về thương tích số 0066/TgT/2020 ngày 05/02/2020 của Trung tâm Pháp y tỉnh Đồng Nai kết luận: Đối với thương tích của Vũ Duy Q như sau:
-Tỷ lệ tổn thương cơ thể do thương tích gây nên tại thời điểm giám định của Vũ Duy Q là 03% (Ba phần trăm).
-Vật gây thương tích: Vật tày.
* Tại Cáo trạng số 1913/CT-VKS-P2 ngày 28/9/2020 của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Đồng Nai truy tố bị cáo V2 Duy Q về tội “Giết người” theo quy định tại điểm n khoản 1 Điều 123 BLHS 2015 (sửa đổi bổ sung năm 2017).
* Quan điểm của đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Đồng Nai tại phiên tòa: Lời khai bị cáo nhận tội tại phiên tòa phù hợp với Cáo trạng truy tố bị cáo theo tội danh và hình phạt tại điểm n, khoản 1 Điều 123 BLHS.
Về tính chất mức độ của hành vi phạm tội: Hành vi của bị cáo đã gây ra hậu quả đặc biệt nguy hiểm cho xả hội, mang tính côn đồ, hung hăng đã tước đoạt mạng sống của người bị hại trái pháp luật cần xử lý nghiêm để răn đe, giáo dục, phòng ngừa chung. Tình tiết tăng nặng: không có; Tình tiết giảm nhẹ: Bị cáo thật thà khai báo, nhận tội, tự nguyện đầu thú, chưa có tiền án tiền sự, có quá trình tham gia quân đội, hoàn thành nghĩa vụ quân sự tại địa phương, đã tác động gia đình bồi thường khắc phục một phần hậu quả cho gia đình bị hại 145.000.000 đ (Một trăm , bốn mươi lăm triệu).
Về hình phạt đề nghị hội đồng xét xử tuyên phạt bị cáo Vũ Duy Q mức án từ 16 (mười sáu) năm tù đến 18 (mười tám) năm tù.
Về trách nhiệm dân sự: Đề nghị hội đồng xét xử buộc bị cáo có trách nhiệm bồi thường chi phí mai tang phí; tổn thất tinh thần và cấp dưỡng nuôi con cho đại diện hợp pháp người bị hại theo quy định của pháp luật.
* Quan điểm của Luật sư Hà Mạnh Tường bào chữa cho bị cáo Vũ Duy Q: Nhất trí Cáo trạng của VKSND tỉnh Đồng Nai truy tố bị cáo theo tội danh và hình phạt đã nêu. Tuy nhiên về mức án đề nghị còn quá nghiêm khắc đề nghị hội đồng xét xử xem xét các tình tiết giảm nhẹ như tự nguyện ra đầu thú, đã khắc phục bồi thường cho gia đình bị hại; Bị cáo có quá trình tham gia quân đội và hoàn thành nghĩa vụ quân sự, chưa có tiền án tiền sự và xem xét thêm tình tiết trong vụ án có phần lỗi của người bị hại … theo khoản 1, 2 Điều 51 BLHS để xem xét giảm nhẹ mức án, cải tạo tốt sớm trở về đoàn tụ với gia đình.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Về tính hợp pháp của các hành vi, quyết định tố tụng:các cơ quan tiến hành tố tụng; Người tiến hành tố tụng, đã thực hiện đầy đủ các quy định của pháp luật đối với bị cáo như: bị cáo đã nhận Kết luận điều tra, cáo trạng và Quyết định đưa vụ án ra xét xử theo đúng trình tự, thủ tục của Bộ luật Tố tụng hình sự. Trong suốt quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa bị cáo và những người tham gia tố tụng khác không có khiếu nại gì về hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng; Người tiến hành tố tụng. Do đó, hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đúng theo quy định của pháp luật.
[2] Về hành vi phạm tội của bị cáo: Tại phiên tòa, bị cáo Vũ Duy Q đã khai nhận: Khoảng 22 giờ 30 ngày 12/01/2020 tại quán nhậu “Phố Biển“ thuộc Khu Phố X3, phường T5, thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai, do mâu thuẫn bộc phát trong lúc ăn nhậu nên anh Ngô Thành T1 dùng ly thủy tinh đập vào đầu Vũ Duy Q gây thương tích 03%. Thấy vậy mọi người can ngăn và Q được anh trai là Vũ Sỹ N1 chở về nhà trọ gần đấy, nhưng do bực tức vì bị T1 đánh chảy máu và đau nên Q đã lấy 01 con dao trong phòng trọ, rồi một mình đi tới quán “Phố Biển” tìm T1 để đánh. Đến nơi gặp T1, Q liền lấy dao đâm liên tục nhiều nhát trúng vào người anh T1 khiến anh T1 nằm gục tại chỗ, đâm xong Q lên xe bỏ đi, anh T1 được mọi người đưa đi cấp cứu tại Bệnh viện Đa khoa tỉnh Đồng Nai nhưng do vết thương nặng nên anh T1 đã tử vong.
Với hành vi phạm tội nêu trên, bị cáo Vũ Duy Q đã bị Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Đồng Nai truy tố về tội “Giết người” theo quy định tại điểm n khoản 1 Điều 123 BLHS 2015 (sửa đổi bổ sung năm 2017) là có căn cứ, đúng người, đúng tội và đúng pháp luật.
Hành vi phạm tội của bị cáo là đặc biệt nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm đến tính mạng, sức khỏe của người khác được pháp luật bảo vệ, gây ảnh hưởng xấu đến tình hình trật tự trị an tại địa phương. Do đó cần xử lý nghiêm để răn đe và phòng ngừa chung. Hành vi của bị cáo thể hiện tính hung hăng, côn đồ, xem thường sức khỏe, tính mạng người khác, xem thường pháp luật, chỉ vì mâu thuẩn nhỏ nhặt trong sinh hoạt với người bị hại mặc dù đã được can ngăn nhưng sau khi về nhà vẫn còn bực tức nên đã lấy 01 con dao quay lại quán “Phố Biển” và đâm nhiều nhát khiến anh T1 tử vong. Hành vi của bị cáo đã tước đoạt đi mạng sống củả người bị hại trái pháp luật, gây đau thương, mất mát không gì bù đắp được cho gia đình nạn nhân, gây bất bình cho quần chúng nhân dân. Do đó, cần có mức hình phạt phù hợp cách ly bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian đủ dài để cải tạo, giáo dục bị cáo và răn đe, phòng ngừa chung.
Khi lượng hình, Hội đồng xét xử xem xét: Bị cáo có nhân thân tốt (chưa có tiền án tiền sự), sau khi thực hiện hành vi phạm tội bị cáo đã đầu thú, bị cáo có quá trình tham gia quân đội và hoàn thành nghĩa vụ quân sự, tại phiên tòa thành khẩn khai báo, gia đình bị cáo đã tự nguyện bồi thường 145.000.000 đ (một trăm, bốn mươi lăm triệu); Mặt khác trong vụ án này bị hại cũng có một phần lỗi. Do đó HĐXX xem xét áp dụng điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 BLHS 2015 (sửa đổi bổ sung năm 2017) để giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo.
[3] Về trách nhiệm dân sự: Đại diện hợp pháp của gia đình nạn nhân Ngô Thành T1 yêu cầu bị cáo Vũ Duy Q phải bồi thường tiền chi phí mai táng cho nạn nhân, tiền trợ cấp nuôi con tổng cộng: 433.000.000 đồng (Bốn trăm ba mươi ba triệu đồng) và tiền tổn thất tinh thần theo quy định pháp luật.
Xét yêu cầu của đại diện hợp pháp người bị hại: Hội đồng xét xử thấy rằng:
Đối với khoản chi phí mai tang phí do bà Hồ Thị H1 là mẹ chồng chị Huỳnh Thị Thu H bỏ ra do đó trong vụ án này bà H1 là người có quyền, nghĩa vụ liên quan. Bà đã nhận số tiền bồi thường 145.000.000 đ. Tại phiên tòa bà H1 cũng đồng ý để chị H2 đại diện giải quyết toàn bộ vụ án trong đó có cả phần chi phí bà đã bỏ ra để làm đám tang cho con và đề nghị tòa tính chung cho chị H2 không phải giải quyết riêng cho bà và chị H2 cũng đồng ý với ý kiến trên.
Xét những chi phí kê khai của bà H1 và chị H có những khoản không hợp lý, không đúng quy định pháp luật và không có chứng từ hợp lệ như: tiền đãi khách đám tang ăn uông, tiền mua đất chôn, tiền xây mộ… do đó hội đồng xét xử chỉ chấp nhận các khoản phù hợp theo quy định bao gồm: Chi phí đám tang 43.120.000 đ; tiến mua đất chôn, đào huyệt và chi phí lặt vặt, T4 xe đưa xác về quê chôn cất khoản 30.000.000. Tổng cộng hai khoản là 73.120.000đ phải bồi thường cho gia đình bị hại.
Về tổn thất tinh thần yêu cầu của đại diện hợp pháp bị hại phù hợp với điều 591 BLDS nghỉ nên chấp nhận yêu cầu trên buôc bị cáo bồi thường bằng 100 tháng lương cơ sở do Nhà nước quy định (Cụ thể: 100 x 1.490.000đ = 149.000.000 đ) là đúng quy định.
Như vậy tổng cộng được chấp nhận là: 73.120.000 đ + 149.000.000 đ = 222.120. 000 đ (Gia đình bị hại đã nhận 145.000.000 đ) Còn lại phải bồi thường tiếp là: 77.120.000 đ.
Về cấp dưỡng nuôi con: Chị H và anh T1 có 01 con chung là cháu Ngô Huỳnh Khánh Ngân (sinh ngày 15/03/2018) chị H yêu cầu cấp dưỡng mỗi tháng 1.500.000 đ đến khi 18 tuổi là 288.000.000 đ. Yêu cầu trên không đúng quy định do đó hội đồng xét xử xem xét vá áp dụng Điều 592 BLDS chỉ buộc bị cáo có trách nhiệm cấp dưỡng nuôi con cho chị H bằng 50% mức lương cơ sở do Nhà nước quy định (1.490.000 x 50% = 745.000 đ/tháng) cho đến khi cháu Ngân đủ 18 tuổi là phù hợp pháp luật.
[4] Về xử lý vật chứng:
- Đối với 01 con dao thái lan dài khoảng 30cm là hung khí gây án. Cơ quan Cảnh sát điều tra đã tiến hành truy tìm vật chứng nhưng không thu giữ được con dao nên không xử lý.
- Một số mảnh thủy tinh vỡ (mảnh vỡ của ly thủy tinh dùng để uống bia) không có giá trị cần tịch thu tiêu hủy theo quy định.
- Quan điểm của đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Đồng Nai tại phiên tòa phù hợp nhận định của HĐXX nên được chấp nhận.
- Quan điểm của Luật sư về các tình tiết giảm nhẹ, nhân thân là phù hợp với nhận định của HĐXX nên ghi nhận. Riêng ý kiến đề nghị áp dụng tình tiết bị cáo phạm tội trong trường hợp bị kích động về tinh thần do hành vi trái pháp luật của nạn nhân là không phù hợp nên không ghi nhận.
[5] Về án phí: Áp dụng Nghị quyết số 326/2016/NQ-UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về án phí và lệ phí Tòa án, buộc bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm và án phí dân sự sơ thẩm theo quy định.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Tuyên bố bị cáo Vũ Duy Q phạm tội “Giết người”.
[1] Áp dụng điểm n khoản 1 Điều 123; điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi bổ sung năm 2017);
Xử phạt: Bị cáo Vũ Duy Q 16 (mười sáu) năm tù. Thời hạn tù tính từ ngày 15/01/2020.
[2] Các biện pháp tư pháp:
* Về trách nhiệm dân sự: Áp dụng Điều 46, 47 BLHS 2015; khoản 1 Điều 584, khoản 1 Điều 585, , Điều 357 và Điều 468 khoản 1 Điều 586, Điều 591, 592, 593 Bộ luật dân sự 2015.
- Buộc bị cáo V2 Duy Q có trách nhiệm bồi thường cho đại diện hợp pháp bị hại chị Huỳnh Thị Thu H các khoản tiền:
+ Về chi phí mai táng phí tổng cộng số tiền là 73.120.000 đ
+ Về tổn thất tinh thần buộc bị cáo bồi thường tổn thất tinh thần cho đại diện hợp pháp người bị hại là chị Huỳnh Thị Thu H bằng 100 tháng lương cơ sở do Nhà nước quy định thành tiền là 149.000.000 đ.
Tổng cộng hai khoản là 222.120.000 đ (Đã nhận 145.000,000 đ) còn phải bồi thường tiếp: 77.120.000 đ (Bảy mươi bảy triệu, một trăm hai mươi ngàn đồng) - Về cấp dưỡng nuôi con: Buộc bị cáo có trách nhiệm cấp dưỡng nuôi con hàng tháng cho chị Huỳnh Thị Thu H đối với cháu Ngô Huỳnh Khánh Ngân bằng 50% mức lương cơ sở do Nhà nước quy định (745.000 đ/ tháng) cho đến khi cháu Ngân trưỡng thành đũ 18 tuổi.
[3] Về xử lý vật chứng:
- Tịch thu tiêu hủy một số mảnh thủy tinh vỡ theo biên bản giao nhận vật chứng tài sản số NK-21/002 ngày 01.10.2020 của Cục Thi Hành Án dân Sự tỉnh Đồng Nai
[4] Về án phí: Bị cáo phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm và 3.856.000 đ (Ba triệu, tám trăm, năm mươi sáu ngàn đồng) án phí dân sự sơ thẩm.
[5] Kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án cho đến khi thi hành án xong tất cả các khoản tiền, hàng tháng bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất quy định tại khoản 2 Điều 468 BLDS 2015.
Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, Điều 7 và Điều 9 Luật Thi hành án dân sự, thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.
Án xử công khai, có măt bị cáo, đại diện hợp pháp người bị hại, người có quyền, nghĩa vụ liên quan; Báo cho biết trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án, có quyền kháng cáo theo luật định.
Bản án 97/2020/HS-ST ngày 08/12/2020 về tội giết người
Số hiệu: | 97/2020/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Đồng Nai |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 08/12/2020 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về