Bản án 97/2019/HS-ST ngày 27/11/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN QUỲNH PHỤ, TỈNH THÁI BÌNH

BẢN ÁN 97/2019/HS-ST NGÀY 27/11/2019 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 27 tháng 11 năm 2019 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Quỳnh Phụ, tỉnh Thái Bình xét xử công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 86/2019/TLST-HS, ngày 23 tháng 10 năm 2019 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 95/2019/QĐXXST-HS ngày 14 tháng 11 năm 2019 đối với bị cáo:

Lương Văn H, sinh ngày 01/01/1988 tại thôn Lạc C, xã A, huyện Quỳnh Phụ, tỉnh Thái Bình; Nơi cư trú: thôn Lạc C, xã A, huyện Quỳnh Phụ, tỉnh Thái Bình; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ học vấn: 6/12; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Không; giới tính: Nam; quốc tịch: Việt Nam; con ông Lương Văn Cự, đã chết (ngày 22/3/2018, ông Cự được Chủ tịch nước tặng Huân chương chiến công hạng Ba) và con bà Vũ Thị Liên, sinh năm 1966. Nơi cư trú tại thôn Lạc C, xã A, huyện Quỳnh Phụ, tỉnh Thái Bình; chưa có vợ, con; tiền sự: Không;

Tiền án: Bản án số 24/2017/HSST ngày 21/4/2017 của Tòa án nhân dân huyện Quỳnh Phụ, tỉnh Thái Bình xử phạt 01 năm tù về tội “Trộm cắp tài sản”; ngày 17/02/2018 chấp hành xong hình phạt tù; tháng 6 năm 2017 chấp hành xong án phí.

Nhân thân: Bản án số 64/2011/HSST ngày 22/12/2011 của Tòa án nhân dân huyện Quỳnh Phụ, tỉnh Thái Bình xử phạt 09 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản” và 02 năm tù về tội: “Cố ý làm hư hỏng tài sản; ngày 26/4/2014 chấp hành xong hình phạt tù; tháng 01/2014 chấp hành xong án phí hình sự sơ thẩm và án phí dân sự sơ thẩm; chưa chấp hành phần trách nhiệm dân sự. Phần bồi thường trách nhiệm dân sự của Bản án số 64/2011/HS-ST ngày 22/12/201 của Tòa án nhân dân huyện Quỳnh Phụ đã quá 05 năm, người được thi hành án không có quyền được yêu cầu thi hành án theo khoản 1 Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

Bị cáo bị tạm giữ từ ngày 22/7/2019 đến ngày 25/7/2019 chuyển tạm giam. Hiện bị cáo đang bị tạm giam tại Nhà tạm giữ - Công an huyện Quỳnh Phụ, tỉnh Thái Bình “có mặt”.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án:

Bà Phạm Thị L, sinh năm 1981 “có mặt”.

Nơi cư trú: Thôn Lạc C, xã A, huyện Quỳnh Phụ, tỉnh Thái Bình

Người chứng kiến:

Ông Hoàng Đình K, sinh năm 1975 “vắng mặt”.

Nơi cư trú: Thôn Lạc C huyện, xã A, Quỳnh Phụ, tỉnh Thái Bình.

Ông Nguyễn Tiến V, sinh năm 1977 “vắng mặt”.

Nơi cư trú: Thôn An Mỹ,xã A, huyện Quỳnh Phụ, tỉnh Thái Bình.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 18 giờ ngày 22/7/2019, tại khu vực thôn Lạc C, xã A, huyện Quỳnh Phụ Tổ công tác của Công an huyện Quỳnh Phụ phối hợp với Công an xã A trong khi làm nhiệm vụ phát hiện Lương Văn H đang điều khiển xe mô tô biển kiểm soát 17L1-8732 có biểu hiện liên quan đến ma túy nên đã yêu cầu dừng xe để kiểm tra thì H lấy từ túi quần đang mặc thả xuống đất 01 túi nhỏ. Tổ công tác đã yêu cầu H nhặt túi đó lên mang về trụ sở Ủy ban nhân dân xã A để kiểm tra, có sự chứng kiến của ông Hoàng Đình K và ông Nguyễn Tiến V kiểm tra, phát hiện, thu giữ tại túi quần bên phải phía sau H đang mặc 01 túi ni lông trong suốt nẹp màu trắng, chứa chất bột màu trắng dạng cục. H khai nhận đó là túi Hêrôin H mua để sử dụng. Tổ công tác đã lập biên bản bắt người phạm tội quả tang, niêm phong vật chứng.

Bản kết luận giám định số 321/KLGĐ-PC09 ngày 23/7/2019 của Phòng Kỹ thuật hình sự, Công an tỉnh Thái Bình kết luận: “Mẫu vật gửi đến giám định là ma túy, loại Heroine (Hêrôin), khối lượng 2,2176 gam (Hai phẩy hai nghìn một trăm bảy mươi sáu gam).” Heroine STT: 09, Danh mục I, Nghị định 73/2018/NĐ-CP ngày 15/5/2018 của Chính Phủ.”

Bản cáo trạng số 94/CT-VKSQP ngày 22-10-2019 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Quỳnh Phụ, tỉnh Thái Bình truy tố Lương Văn H về tội "Tàng trữ trái phép chất ma túy" theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự.

Tại phiên toà: Trong phần tranh luận, ông Kiểm sát viên giữ quyền công tố tại phiên tòa vẫn giữ nguyên quan điểm truy tố đối với bị cáo Lương Văn H như tội danh và điều luật được viện dẫn trong bản cáo trạng. Đề nghị Hội đồng xét xử: Tuyên bố bị cáo Lương Văn H phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”;

Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 và khoản 2 (Vì bị cáo Lương Văn H con ông Lương Văn Cự đã được Nhà nước tặng thưởng Huân chương chiến công Hạ Ba) Điều 51; điểm h khoản 1 Điều 52; Điều 50 và Điều 38 Bộ luật Hình sự đề nghị xử phạt bị cáo Lương Văn H từ 02 năm 06 tháng tù đến 03 năm tù. Thời hạn tù tính từ ngày bắt tạm giữ (ngày 22 tháng 7 năm 2019);

Về hình phạt bổ sung đề nghị không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo H.

Về xử lý vật chứng: Áp dụng Điều 47 Bộ luật Hình sự; Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự: Tịch thu tiêu hủy 1,8479 gam (một phẩy tám nghìn bốn trăm bẩy mươi chín gam) mẫu giám định và bao gói trong bao niêm phong số 321/KLGĐ. Trả lại chiếc xe mô tô biển kiểm soát 17L1-8732 cho bà Phạm Thị L.

Về án phí: Đề nghị áp dụng Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự; Điều 23 Nghị quyết số: 326/2016/ UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án, bị cáo H phải chịu án phí hình sự sơ thẩm.

Tại phiên tòa bị cáo Lương Văn H khai nhận là người nghiện chất ma túy. Khoảng 15 giờ ngày 22/7/2019, H điều khiển xe mô tô biển kiểm soát 17L1-8732 từ nhà đến khu vực đường tàu thuộc phường Trần Nguyên Hãn, thành phố Hải Phòng với mục đích mua Hêrôin để sử dụng cho bản thân. H gặp và mua của một người đàn ông khoảng 40 tuổi, không quen biết, 01 gói Hêrôin với giá 3.000.000 đồng rồi giấu vào túi quần bên phải phía sau đang mặc và điều khiển xe về nhà. Khi đi đến cánh đồng thuộc thôn Lạc C, xã A, huyện Quỳnh Phụ thì bị cơ quan Công an phát hiện bắt quả tang.

Bà Phạm Thị L là chủ sở chiếc xe mô tô biển kiểm soát 17L1-8732 (bà là mợ của bị cáo H). Khi bà cho bị cáo H mượn xe là hoàn toàn tự nguyện, không bị ép buộc bà không biết bị cáo H mượn xe để đi mua ma túy. Bà L đề nghị Hội đồng xét xử trả lại chiếc mô tô biển kiểm soát 17L1-8732 và không yêu cầu bị cáo H phải bồi thường bất cứ khoản chi phí nào khác.

Lời nói sau cùng bị cáo Lương Văn H đề nghị Hội đồng xét xử xem xét bản thân rất ăn năn hối cải và mong muốn hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về tính hợp pháp của các hành vi, quyết định tố tụng trong điều tra, truy tố, xét xử: Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện Quỳnh Phụ, Điều tra viên; Viện kiểm sát nhân dân huyện Quỳnh Phụ, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định trong Bộ luật Tố tụng hình sự; bị cáo không có khiếu nại gì. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về chứng cứ xác định có tội: Biên bản bắt người phạm tội quả tang do cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Quỳnh Phụ lập hồi 18 giờ 15 phút ngày 22/7/2019 tại trụ sở Ủy ban nhân dân xã A, huyện Quỳnh Phụ, tỉnh Thái Bình Biên bản niêm phong vật chứng; Bản tự khai và biên bản ghi lời khai của ông Hoàng Đình K và ông Nguyễn Tiến V, bà Phạm Thị L.

Như vậy có đủ cơ sở kết luận: Khoảng 18 giờ ngày 22/7/2019, tại khu vực thôn Lạc C, xã A, huyện Quỳnh Phụ, tỉnh Thái Bình, bị cáo Lương Văn H đã có hành vi tàng trữ trái phép 01 gói Hêrôin có khối lượng 2,2176 gam (Hai phẩy hai nghìn một trăm bảy mươi sáu gam) với mục đích để sử dụng, đã bị Công an huyện Quỳnh Phụ phát hiện, bắt quả tang. Bản kết luận giám định số 321/KLGĐ-PC09 ngày 23/7/2019 của Phòng Kỹ thuật hình sự, Công an tỉnh Thái Bình kết luận: “Mẫu vật gửi đến giám định là ma túy, loại Heroine (Hêrôin), khối lượng 2,2176 gam (Hai phẩy hai nghìn một trăm bảy mươi sáu gam).” Heroine STT: 09, Danh mục I, Nghị định 73/2018/NĐ-CP ngày 15/5/2018 của Chính Phủ.”.

Hành vi của bị cáo Lương Văn H đã phạm vào tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, tội phạm và hình phạt quy định tại điểm c khoản 1 điều 249 Bộ luật Hình sự năm 2015.

Điều 249. Tội tàng trữ trái phép chất ma tuý

1. Người nào tàng trữ trái phép chất ma túy mà không nhằm mục đích mua bán, vận chuyển, sản xuất trái phép chất ma túy thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm.

c) Hêrôin, côcain, Methamphetamine, Amphetamine, MDMA có khối lượng từ 0,1 gam đến dưới 05 gam;

………..

5. Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 500.000.000 đồng, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm hoặc tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản”

[3] Xét tính chất, mức độ nguy hiểm hành vi phạm tội. Hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy của bị cáo H thực hiện là nguy hiểm cho chính bản thân bị cáo và mọi người đã xâm phạm đến chính sách độc quyền quản lý của Nhà nước về các chất ma túy, làm mất trật tự trị an trong quần chúng nhân dân.

[4] Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Phần bồi thường trách nhiệm dân sự của Bản án số 64/2011/HS-ST ngày 22/12/2011 của Tòa án nhân dân huyện Quỳnh Phụ. Người được thi hành án dân sự là ông Hà Văn Thực và Trung tâm viễn thông Quỳnh Phụ, thuộc Viễn thông Thái Bình đều không yêu cầu bị cáo H phải bồi thường. Do vậy đã quá thời hạn 05 năm, người được thi hành án không có quyền được yêu cầu thi hành án theo khoản 1 Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

Bị cáo H đã bị kết án theo Bản án số 24/2017/HSST ngày 21/4/2017 của Tòa án nhân dân huyện Quỳnh Phụ, tỉnh Thái Bình xử phạt 01 năm tù về tội “Trộm cắp tài sản” chưa được xóa án tích mà lại thực hiện hành vi phạm tội, cho nên bị cáo H bị áp dụng tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự “tái phạm” theo quy định tại điểm h, khoản 1 Điều 52, khoản 1 Điều 53 của Bộ luật Hình sự.

[5] Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Trong quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa bị cáo Lương Văn H thành khẩn khai báo cho nên bị cáo được hưởng một tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự. Ngoài ra, bố đẻ bị cáo là ông Lương Văn Cự được Nhà nước tặng thưởng Huân chương chiến công hạng Ba, cho nên bị cáo H được hưởng tình tiết giảm nhẹ theo khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự. Bị cáo H có nhân thân xấu là đối tượng nghiện ma túy.

[6] Về hình phạt chính: Bị cáo H có nhân thân xấu, cố ý phạm tội, phạm tội nghiêm trọng. Do vậy cần buộc bị cáo H phải chấp hành hình phạt tù có thời hạn tại cơ sở giam giữ trong một thời hạn nhất định nhằm giáo dục bị cáo H tuân theo pháp luật, giáo dục người khác tôn trọng pháp luật, phòng ngừa và đấu tranh phòng chống tội phạm.

[7] Về hình phạt bổ sung: Theo quy định tại khoản 5 Điều 249 Bộ luật Hình sự quy định: “Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 500.000.000 đồng”. Theo các tài liệu, chứng cứ và lời khai của bị cáo H tại phiên tòa bị cáo không có thu nhập, Hội đồng xét xử không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo H.

[7] Về trách nhiệm dân sự: Việc giao dịch dân sự giữa bị cáo H mượn chiếc xe mô tô biển kiểm soát 17L1-8732 của bà Phạm Thị L, sinh năm 1981, trú tại thôn Lạc C, xã A, huyện Quỳnh Phụ, tỉnh Thái Bình là hoàn toàn tự nguyện, ngay tình, không bị ép buộc.Việc bị cáo H mượn xe mô tô đi mua ma túy bà L không biết. Do vậy cần trả lại chiếc xe mô biển kiểm soát 17L1-8732 cho bà L. Bà L không yêu cầu bị cáo H phải bồi thường khoản chi phí nào khác cho nên không xem xét.

[8] Về nguồn gốc số ma túy: Bị cáo Lương Văn H khai mua của người đàn ông khoảng 40 tuổi, không biết tên, địa chỉ tại Thành phố Hải Phòng nên Cơ quan Cảnh sát điều tra không có căn cứ để điều tra, xử lý.

[9] Về xử lý vật chứng: Áp dụng Điều 47 Bộ luật Hình sự; Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự: Tịch thu tiêu hủy 1,8479 gam (một phẩy tám nghìn bốn trăm bẩy mươi chín gam) mẫu giám định và bao gói trong bao niêm phong số 321/KLGĐ. Trả lại chiếc xe mô tô biển kiểm soát 17L1-8732 cho bà Phạm Thị L, sinh năm 1981, trú tại thôn Lạc C, xã A, huyện Quỳnh Phụ, tỉnh Thái Bình (Thời điểm đăng ký xe bà L cư trú tại xóm 1, xã Đồng Tiến, huyện Quỳnh Phụ).

[10] Về án phí: Áp dụng Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự; Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án. Bị cáo H phải chịu án phí hình sự sơ thẩm.

[11] Những chứng cứ buộc tội của Kiểm sát viên và lời trình bày của bị cáo H phù hợp với tranh tụng tại phiên tòa.

[12] Bị cáo H, bà L có quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

 1. Tuyên bố bị cáo Lương Văn H phạm tội "Tàng trữ trái phép chất ma túy".

2. Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; Điều 38 và Điều 50; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; điểm h khoản 1 Điều 52 của Bộ luật Hình sự.

3. Xử phạt bị cáo Lương Văn H 03 (ba) năm tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt tạm giữ (ngày 22 tháng 7 năm 2019).

4. Về xử lý vật chứng: Áp dụng Điều 47 Bộ luật Hình sự; Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự: Tịch thu tiêu hủy 1,8479 gam (một phẩy tám nghìn bốn trăm bẩy mươi chín gam) mẫu giám định và bao gói trong bao niêm phong số 321/KLGĐ. Trả lại chiếc xe mô tô biển kiểm soát 17L1-8732 cho bà Phạm Thị L, sinh năm 1981, trú tại thôn Lạc C, xã A, huyện Quỳnh Phụ, tỉnh Thái Bình (Thời điểm đăng ký xe bà L cư trú tại xóm 1, xã Đồng Tiến, huyện Quỳnh Phụ). (Vật chứng đang lưu tại Kho Chi cục Thi hành án dân sự huyện Quỳnh Phụ, tỉnh Thái Bình).

5. Về án phí: Áp dụng Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự; Điều 23 Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án. Bị cáo Lương Văn H phải chịu 200.000 đồng (Hai trăm nghìn đồng) tiền án phí hình sự sơ thẩm.

6. Bị cáo Lương Văn H, bà Phạm Thị L có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án (ngày 27 tháng 11 năm 2019).

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

164
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 97/2019/HS-ST ngày 27/11/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:97/2019/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Quỳnh Phụ - Thái Bình
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 27/11/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về