TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN KỲ SƠN, TỈNH NGHỆ AN
BẢN ÁN 97/2018/HS-ST NGÀY 11/10/2018 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY
Ngày 11 tháng 10 năm 2018 tại Trụ sở Tòa án nhân dân huyện Kỳ Sơn, tỉnh Nghệ An xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 91/2018/TLST-HS ngày 04 tháng 9 năm 2018 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 109/2018/TLST-HS ngày 26 tháng 9 năm 2018 đối với các bị cáo:
1, Họ và tên: Kha Văn K; Tên gọi khác: không; Sinh ngày 05/02/1992 tại xã HK, huyện KS, tỉnh Nghệ An; Nơi cư trú: bản H, xã HK, huyện KS, tỉnh Nghệ An; Nghề nghiệp: làm rẫy; trình độ văn hóa: lớp 11/12; dân tộc: Thái; Giới tính: Nam; tôn giáo: không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Kha Văn T và bà Vi Thị N; vợ, con: chưa có; tiền án, tiền sự: không; bị bắt theo quyết định truy nã từ ngày 04/5/2018 đến nay, hiện đang tạm giam. Có mặt.
2, Họ và tên: Lộc Trọng Đ; Tên gọi khác: không; Sinh ngày 03/8/1996 tại xã TG, huyện TD, tỉnh Nghệ An; Nơi cư trú: bản H, xã HK, huyện KS, tỉnh Nghệ An; Nghề nghiệp: lao động tự do; trình độ văn hóa: lớp 12/12; dân tộc: Thái; giới tính: nam; tôn giáo: không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Lộc Văn M và bà Vi Thị H; vợ, con: chưa có; tiền án, tiền sự: không; bị bắt từ ngày 13/3/2018 đến nay, hiện đang tạm giam. Có mặt.
3, Họ và tên: Lô Văn M; Tên gọi khác: không; Sinh ngày 6/6/1988 tại xã HK, huyện KS, tỉnh Nghệ An; Nơi cư trú: bản H, xã HK, huyện KS, tỉnh Nghệ An; Nghề nghiệp: lái xe; trình độ văn hóa: lớp 12/12; dân tộc: Thái; giới tính: nam; tôn giáo: không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Lô Văn H và bà Lô Thị H; vợ, con: chưa có; tiền án, tiền sự: không; bị bắt từ ngày 17/3/2018 đến nay, hiện đang tạm giam. Có mặt.
- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án: Bà Vi Thị H; Sinh năm 1975; Trú tại: Bản H, xã HK, huyện KS, tỉnh Nghệ An. Có mặt.
- Người làm chứng: Anh Vi Khăm H; Sinh năm 1986; Trú tại: Bản C, xã CL, huyện KS, tỉnh Nghệ An. Vắng mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Căn cứ vào các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Theo cáo trạng số 99/CT-VKS-HS ngày 01 tháng 9 năm 2018 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Kỳ Sơn, tỉnh Nghệ An thì các bị cáo Kha Văn K, Lộc Trọng Đ, Lô Văn M đã có hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy và bị truy tố theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự.
Tại phiên tòa các bị cáo Kha Văn K, Lộc Trọng Đ và Lô Văn M đều thừa nhận có hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy với các tình tiết đúng như nội dung bản cáo trạng đã nêu, cụ thể là: Vào khoảng 11 giờ 30 ngày 13/3/2018, Kha Văn K rủ Lộc Trọng Đ đi mua ma túy, Đ đồng ý và gọi điện rủ thêm Lô Văn M đi cùng và cũng được M đồng ý. Sau đó Lộc Trọng Đ lấy xe máy của gia đình chở Lô Văn M và Kha Văn K đi từ bản H, xã HK, huyện KS, tỉnh Nghệ An đến bản Cò Sọ, xã Lượng Minh, huyện Tương Dương, tỉnh Nghệ An để mua ma túy. Đến nơi Đ, M và K gặp một người đàn ông tên Búa không quen biết rồi Khăm đưa cho May số tiền 400.000 đồng để mua ma túy, May cầm tiền rồi mua 01 gói hêrôin và 03 viên ma túy tổng hợp với số tiền là 380.000 đồng. Mua ma túy xong K đưa số ma túy vừa mua được cho Đ và M xem rồi ba người lấy một ít hêrôin và 01 viên ma túy tổng hợp ra sử dụng, số còn lại gói lại như cũ rồi đi về, khi đi qua bản Cò Sọ ba người tiếp tục lấy một ít hêrôin và 02 viên ma túy tổng hợp ra sử dụng, số còn lại K giữ. Sau đó M lấy xe máy quay lại bản Cò Sọ mua tiếp 01 gói hêrôin với số tiền 30.000 đồng. Khi ba người về đến một chân dốc thì dừng xe để nghỉ ngơi, K lấy 01 gói hêrôin cho Đ cầm còn K cầm 01 gói sau đó tiếp tục đi về, khi về đến bản Lưu Thắng, xã Chiêu Lưu, huyện Kỳ Sơn thì bị tổ công tác Công an huyện Kỳ Sơn phát hiện, bắt quả tang thu giữ tên tay của Lộc Trọng Đ 01 gói chất bột màu trắng (nghi là hêrôin) và 01 chiếc xe máy nhãn hiệu Yamaha, loại xe Sirius, màu Đen-Xám, BKS-37K1.113.44, còn Kha Văn K và Lô Văn M lợi dụng sơ hở trốn thoát. Đến ngày 17/3/2018 thì Lô Văn M ra đầu thú, đến 04/5/2018 thì Kha Văn K bị bắt theo quyết định truy nã.
Tại biên bản mở niêm phong xác định khối lượng lấy mẫu giám định và niêm phong lại vào hồi 15 giờ 10 phút ngày 14/3/2018 đã xác định: Số chất màu trắng (nghi là hêrôin) thu giữ của Lộc Trọng Đ có khối lượng 0,1g (Không phẩy một gam). Tại kết luận giám định số 377/KL- PC54(MT) ngày 19/3/2018 của Phòng Kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Nghệ An đã kết luận: Mẫu chất màu trắng ghi thu của Lộc Trọng Đ gửi tới giám định là ma tuý (hêrôin).
Đại diện Viện kiểm sát tại phiên tòa hôm nay vẫn giữ nguyên quyết định truy tố đối với các bị cáo và đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố các bị cáo Kha Văn K, Lộc Trọng Đ, Lô Văn M phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”; áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự để tuyên phạt bị cáo Kha Văn K mức án từ 13 (Mười ba) đến 16 (Mười sáu) tháng tù, tuyên phạt bị cáo Lộc Trọng Đ mức án từ 12 (Mười hai) đến 14 (Mười bốn) tháng tù, tuyên phạt bị cáo Lô Văn M mức án từ 12 (Mười hai) đến 15 (Mười lăm) tháng tù; đề nghị miễn hình phạt bổ sung là phạt tiền cho các bị cáo và xử lý vật chứng theo quy định.
Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan đến vụ án là bà Vi Thị Hoa đã nhận lại được tài sản là 01 chiếc xe máy nhãn hiệu Yamaha, loại xe Sirius, màu Đen-Xám, BKS-37K1.113.44 mà các bị cáo đã sử dụng để đi mua ma túy nên tại phiên tòa không có yêu cầu hay đề xuất gì.
Các bị cáo nói lời sau cùng đều thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình như nội dung bản Cáo trạng đã truy tố, mong Hội đồng xét xử xem xét, giảm nhẹ một phần hình phạt.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Lời khai của các bị cáo Kha Văn K, Lộc Trọng Đ, Lô Văn M tại phiên tòa hôm nay phù hợp với lời khai của các bị cáo tại cơ quan điều tra, phù hợp với các chứng cứ tài liệu khác đã thu thập được trong quá trình điều tra có tại hồ sơ vụ án, phù hợp nội dung bản cáo trạng truy tố, như vậy Hội đồng xét xử có đủ cơ sở để kết luận: Vào ngày 13/3/2018 các bị cáo Kha Văn K, Lộc Trọng Đ, Lô Văn M đã có hành vi cất giấu và tàng trữ 0,1g (không phẩy một gam) hêrôin với mục đích để sử dụng, vì vậy, hành vi đó của các bị cáo đã phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, tội phạm và hình phạt được quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự.
[2] Về tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội; nhân thân người phạm tội và tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Hành vi phạm tội của các bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm chế độ quản lý của Nhà nước đối với các loại chất gây nghiện, gây ảnh hưởng xấu đến trật tự, an toàn xã hội. Khi phạm tội các bị cáo cũng nhận thức được ma túy là chất Nhà nước cấm, vì ma túy gây tác hại xấu đến đời sống kinh tế xã hội, sức khỏe của con người và cũng là mầm mống phát sinh các tệ nạn xã hội và các tội phạm khác nhưng các bị cáo vẫn bất chấp pháp luật đề tàng trữ trái phép làm ảnh hưởng đến đến tình hình an ninh trật tự tại địa phương. Do đó cần tuyên phạt các bị cáo mức án nghiêm khắc, tương xứng với hành vi mà các bị cáo đã thực hiện, có như vậy mới đủ điều kiện để cải tạo giáo dục riêng các bị cáo và răn đe phòng ngừa chung. Tuy nhiên, khi quyết định hình phạt, Hội đồng xét xử cũng thấy, các bị cáo phạm tội lần đầu, trong quá trình điều tra, truy tố cũng như tại phiên tòa hôm nay đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải nên được hưởng tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự.
[3] Đây là vụ án có đồng phạm vì vậy cần xem xét đến tính chất, mức độ và vai trò của từng bị cáo để lên cho mỗi bị cáo mức án phù hợp với hành vi của mình nhằm cải tạo giáo dục riêng và phòng ngừa chung. Đối với bị cáo Kha Văn K là người cầm đầu, rủ rê, lối kéo người khác đi mua ma túy, là người cung cấp tiền cho các bị cáo mua ma túy, hơn nữa khi bị phát hiện về hành vi phạm tội đã lợi dụng sơ hở để bỏ trốn khỏi địa phương gây khó khăn trong việc điều tra, xử lý vụ án nên trong vụ án này Kha Văn K là đối tượng giữ vai trò chính và phải chịu mức án cao hơn. Đối với các bị cáo Lộc Trọng Đ, Lô Văn M mặc dù bị rủ rê, lôi kéo nhưng đã thực hiện tội phạm một cách tích cực (Lộc Trọng Đ đã lấy xe máy của gia đình để chở các bị cáo khác đi mua ma túy, Lô Văn M là người trực tiếp mua ma túy) do vậy Lộc Trọng Đ, Lô Văn M phải chịu trách nhiệm về hành vi mà mình gây ra.
[4] Hình phạt bổ sung: Thấy rằng các bị cáo không có nghề nghiệp, không có thu nhập ổn định, sinh sống ở vùng sâu, vùng xa, vùng kinh tế đặc biệt khó khăn nên miễn hình phạt bổ sung cho các bị cáo.
[5] Đối với người đàn ông tên Búa đã bán ma túy cho các bị cáo, qua xác minh tại bản Cò Sọ, xã Lượng Minh, huyện Tương Dương không có người đàn ông nào tên Búa, Cơ quan điều tra đang tiếp tục xác minh làm rõ, khi nào có kết quả sẽ được xử lý.
[6] Đối với bà Vi Thị H là chủ sở hữu của chiếc xe máy Yamaha, loại xe Sirius, màu Đen - Xám, BKS - 37K1.113.44 mà các bị cáo đã sử dụng để đi mua ma túy, tuy nhiên bà Hoa không biết các bị cáo đã sử dụng xe vào việc phạm tội nên không có căn cứ để xử lý trách nhiệm hình sự đối với bà Vi Thị H.
[7] Vật chứng vụ án: Đối với số ma túy hêrôin đã thu giữ của các bị cáo, sau khi trích mẫu để gửi đi giám định, số còn lại là 0,05g (Không phẩy không năm gam) là vật chứng Nhà nước cấm tàng trữ, lưu hành nên phải tịch thu để tiêu hủy. Đối với chiếc xe máy nhãn hiệu Yamaha, loại xe Sirius, màu Đen - Xám, BKS - 37K1.113.44 đã thu giữ của các bị cáo, quá trình điều tra Cơ quan điều tra đã trả lại cho chủ sở hữu là bà Vi Thị Hoa là đúng quy định, tại phiên tòa bà H không có yêu cầu hay đề xuất gì về vấn đề này nên Tòa không xem xét.
[8] Về hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng Hình sự. Các bị cáo không có ý kiến gì khiếu nại về hành vi, quyết định của người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định của Điều tra viên; Kiểm sát viên đã thực hiện đều hợp pháp.
[9] Về án phí: Các bị cáo là những người bị kết án nên phải chịu tiền án phí hình sự sơ thẩm.
[10] Các bị cáo, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có quyền kháng cáo bản án theo quy định của pháp luật.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ vào điểm c khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự: Tuyên bố các bị cáo Kha Văn K, Lộc Trọng Đ, Lô Văn M phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.
- Xử phạt bị cáo Kha Văn K 14 (Mười bốn) tháng tù, thời gian chấp hành hình phạt tù được tính từ ngày bị cáo bị bắt (ngày 04/5/2018).
- Xử phạt bị cáo Lộc Trọng Đ 12 (Mười hai) tháng tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù được tính từ ngày bị cáo bị bắt (ngày 13/3/2018).
- Xử phạt bị cáo Lô Văn M 12 (Mười hai) tháng tù, thời gian chấp hành hình phạt tù được tính từ ngày bị cáo bị bắt (ngày 17/3/2018).
Về xử lý vật chứng: Áp dụng điểm a khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự: Tịch thu để tiêu hủy 01 (Một) phong bì thư bưu điện được dán kín, ở mép dán có đầy đủ chữ ký của Hội đồng tham gia niêm phong và bị cáo Lộc Trọng Đ, bên trong chứa 0,05 (Không phẩy không năm) gam hêrôin thu giữ của các bị cáo. Vật chứng đang do Chi cục thi hành án dân sự huyện Kỳ Sơn quản lí theo biên bản giao nhận vật chứng hồi 09 giờ 30 phút ngày 06/9/2018.
Về án phí: Áp dụng khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng Hình sự, điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí lệ phí Tòa án: Buộc các bị cáo Khăm Văn Khăm, Lộc Trọng Đ, Lô Văn M mỗi bị cáo phải chịu 200.000 đồng (Hai trăm nghìn đồng) tiền án phí hình sự sơ thẩm.
Về quyền kháng cáo: Áp dụng Điều 331 và Điều 333 Bộ luật Tố tụng hình sự: Tuyên bố các bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có quyền kháng cáo bản án về phần liên quan trực tiếp đến quyền lợi, nghĩa vụ của mình trong thời ghạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm./.
Bản án 97/2018/HS-ST ngày 11/10/2018 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy
Số hiệu: | 97/2018/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Kỳ Sơn - Nghệ An |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 11/10/2018 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về