TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN VÂN HỒ, TỈNH SƠN LA
BẢN ÁN 97/2018/HS-ST NGÀY 09/10/2018 VỀ TỘI VI PHẠM QUY ĐỊNH THAM GIA GIAO THÔNG ĐƯỜNG BỘ
Ngày 09 tháng 10 năm 2018 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện V, tỉnh Sơn La, xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 94/2018/TLST-HS ngày 31 tháng 8 năm 2018 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 99/2018/QĐXXST-HS ngày 24 tháng 9 năm 2018 đối với bị cáo:
Trần Đức T; tên gọi khác: Không; sinh năm 1981 tại huyện T, tỉnh Thái Bình; Nơi cư trú: Xóm 3, Thôn M, xã Đ, huyện T, tỉnh Thái Bình; nghề nghiệp: Lái xe; trình độ văn hoá: 9/12; dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Trần Đức H, sinh năm 1954 và bà Trần Thị Q, sinh năm 1954; có vợ là Nguyễn Thị T, sinh năm 1982; và 01 con; tiền án: Không; tiền sự: Không; bị cáo được tại ngoại và bị áp dụng biện pháp ngăn chặn cấm đi khỏi nơi cư trú. Có mặt.
-Người bị hại: Anh Cao Ngọc L, sinh năm 1993 (đã chết).
-Đại diện hợp pháp cho người bị hại: Bà Lê Thị Ng, sinh năm 1975; Nơi cư trú: Tiểu khu 7, thị trấn M, huyện M, tỉnh Sơn La. Vắng mặt.
-Bị đơn dân sự: Ông Đỗ Văn Tr, sinh năm 1969; Nơi cư trú: Thôn O, xã Đ, huyện T, tỉnh Thái Bình (Tạm trú: Bản B, xã V, huyện V, tỉnh Sơn La). Có mặt.
-Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan: Anh Lê Cao Ng, sinh năm 1986; Nơi cư trú: Tiểu khu 6, xã Ch, huyện M, tỉnh Sơn La. Vắng mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Khoảng 14 giờ ngày 14/4/2018 Trần Đức T có giấy phép lái xe theo quy định điều khiển xe ô tô đầu kéo BKS: 28C-023.39 kéo rơ mooc BKS: 28R-00088 đi từ thành phố S đến huyện V, tỉnh Sơn La. Đến khoảng 18 giờ thì đi đến KM 174 Quốc lộ 6, thuộc bản B, xã V, huyện V, tỉnh Sơn La là đoạn đường vòng cua bên trái, xuống dốc, mặt đường trơn trượt do trời vừa mưa xong. Khi xe đang vào cua, do mặt đường trơn trượt khiến xe bị văng, trượt sang phần đường bên trái. T đánh lái sang bên phải, đạp phanh xe nhưng phần đầu kéo của xe đâm vào tà luy dương bên trái đường, phần rơ mooc phía sau bị đẩy ngang ra đường và trượt theo quán tính xuống dốc.
Cùng lúc đó, Cao Ngọc L, sinh năm 1993, trú tại tiểu khu 7, trị trấn M, huyện M, điều khiển xe mô tô BKS: 26F4-7649 chạy ngược chiều đi đến, cách xe ô tô đầu kéo BKS: 28C-023.39 khoảng 20m. Trần Đức T lo sợ nên đã bỏ tay lái ra để ôm đầu. Xe mô tô BKS: 26F4-7649 đã va chạm với bình nén hơi bên phải của xe ô tô. Hậu quả sẩy ra khiến Cao Ngọc L cùng xe mô tô văng xuống rãnh khiến L bị thương nặng, tử vong khi đưa đi cấp cứu, còn xe ô tô BKS: 28C-023.39 tiếp tục trôi xuống dốc theo quán tính rồi dừng lại đầu kéo của xe bị lật khiến xe ô tô và đầu kéo bị hư hỏng, Trần Đức T bị xây xát nhẹ.
Tại biên bản khám nghiệm tử thi ngày 14/4/2018 và kết luận giám định số 58/TT ngày 08/5/2018 của Trung tâm giám định pháp y tỉnh Sơn La kết luận: “Đa chấn thương, shock mất máu cấp sau đứt động mạch cẳng chân trái do va đập là nguyên nhân gây tử vong”.
Tại kết luận đinh giá tài sản số 02 ngày 05/6/2018 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng huyện Vân Hồ xác định: Tổng giá trị thiệt hại của xe Ô tô BKS 28C- 023.39 kéo rơ mooc BKS: 28R-00088 là 128.010.000 đồng. Tổng giá trị thiệt hại tài sản của xe mô tô BKS: 26F4-7649 là 11.500.000 đồng.
Căn cứ vào các tài liệu đã thu thập được, căn cứ vào biên bản khám nghiệm hiện trường, biên bản khám nghiệm tử thi, khám nghiệm phương tiện giao thông. Kết luận nguyên nhân sẩy ra tai nạn là do lỗi của Trần Đức T, điều khiển xe ô tô tại đoạn đường xuống dốc, vòng cua bên trái, mặt đường trơn trượt không làm chủ được tốc độ, tay lái dẫn đến xe bị văng trượt trên mặt đường đâm vào xe máy do Cao Ngọc L điều khiển đi ngược chiều, hậu quả làm Cao Ngọc L tử vong, thiệt hại xe ô tô và xe máy là 139.510.000 đồng.
Sau khi nạn nhân Cao Ngọc L tử vong gia đình nạn nhân đã tổ chức mai táng phí, chi phí cho việc mai tang phí là 40.000.000 đồng. Đại diện bị hại là bà Lê Thị Ng yêu cầu Trần Đức T bồi thường thiệt hại trong đó tiền mai tang phí là 40.000.000 đồng, bồi thường xe máy bị thiệt hại là 20.000.000 đồng, tổn thất tinh thần là 140.000.000 đồng. Trần Đức T đã bồi thường toàn bộ số tiền trên, gia đình Cao Ngọc L không yêu cầu Trần Đức T phải bồi thường thêm khoản gì khác.
Đỗ Văn Tr không yêu cầu Trần Đức T phải bồi thường thiệt hại của xe ô tô BKS 28C-023.39 kéo rơ mooc BKS: 28R-00088.
Tại bản cáo trạng số: 65/CT-VKS ngày 31/8/2018 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Vân Hồ, tỉnh Sơn La đã truy tố bị cáo Trần Đức T về tội: Vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ theo điểm a, d khoản 1 Điều 260 Bộ luật hình sự. Tại phiên tòa đề nghị tuyên bố bị cáo Trần Đức T phạm tội Vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ. Đề nghị áp dụng điểm a, d khoản 1 Điều 260, điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51, Điều 65 xử phạt bị cáo từ 02 (hai) năm đến 02(hai) năm 06 (sáu) tháng tù nhưng cho hưởng án treo thời gian thử thách tính từ ngày tuyên án sơ thẩm (09/10/2018). Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.
Đề nghị dụng điều 48 Bộ luật hình sự 2015, Điều 584,589, 591 Bộ luật dân sự chấp nhận sự tự nguyện thỏa thuận bồi thường thiệt hại giữa bị cáo và đại diện hợp pháp của bị hại bà Lê Thị Ng và Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan anh Lê Cao Ng, bị cáo đã bồi thường tổng cộng là 200.000.000 đồng. Chấp nhận thỏa thuận giữa bị cáo và Bị đơn dân sự, Bị đơn dân sự không yêu cầu bị cáo bồi thường thiệt hại.
Đề nghị chấp nhận Cơ quan điều tra trả lại cho bị đơn dân sự Ông Đỗ Văn Tr 01 xe ô tô đầu kéo BKS: 28C-023.39 kéo theo sơ mi rơ mooc BKS: 28 R-00088; 01 bình nén hơi kích thước 40x30 cm và toàn bộ giấy tờ kèm theo.
Ý kiến của bị cáo: Nhất trí với quan điểm truy tố luận tội của Viện kiểm sát, không có ý kiến gì thêm.
Ý kiến của bị đơn dân sự: Bị đơn dân sự và bị cáo đã tự nguyện thỏa thuận, không có ý kiến gì thêm.
Bị cáo nói lời sau cùng: Xin cho bị cáo được hưởng mức án thấp nhất, cho bị cáo được hưởng án treo vì bị cáo là lao động chính còn cha mẹ già và con nhỏ.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Về hành vi quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện Vân Hồ, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Vân Hồ, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố Trần Đức T về tội “Vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ ” đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục, quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo không có ý kiến và khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã được thực hiện trong vụ án đều hợp pháp.
[2] Về chứng cứ xác định có tội: Tại phiên tòa bị cáo Trần Đức T khai nhận hành vi phạm tội của mình như nội dung bản cáo trạng đã nêu. Căn cứ lời khai của bị cáo, biên bản hỏi cung bị can, biên bản khám nghiệm hiện trường, kết luận khám nghiệm tử thi, kết luận định giá tài sản cùng các tài liệu chứng cứ khác có trong hồ sơ, thể hiện: Vào hồi 18 giờ ngày 14/4/2018, Trần Đức T là lái xe thuê cho Ông Đỗ Văn Tr xe có giấy tờ hợp lệ được phép lưu hành đi đến KM 174 Quốc lộ 6, thuộc bản B, xã V, huyện V, tỉnh Sơn La là đoạn đường vòng cua bên trái, xuống dốc, mặt đường trơn trượt do trời vừa mưa xong. Khi xe đang vào cua, do mặt đường trơn trượt khiến xe bị văng, trượt sang phần đường bên trái. Tiệm đánh lái sang bên phải, đạp phanh xe nhưng phần đầu kéo của xe đâm vào tà luy dương bên trái đường, phần rơ mooc phía sau bị đẩy ngang ra đường và trượt theo quán tính xuống dốc. Cùng lúc đó, Cao Ngọc L, sinh năm 1993, trú tại tiểu khu 7, trị trấn M, huyện M, điều khiển xe mô tô BKS:26F4-7649 chạy ngược chiều đi đến. Trần Đức T lo sợ nên đã bỏ tay lái ra để ôm đầu.
Xe mô tô BKS: 26F4-7649 đã va chạm với bình nén hơi bên phải của xe ô tô. Hậu quả khiến Cao Ngọc L cùng xe mô tô văng xuống rãnh khiến L bị thương nặng, tử vong khi đưa đi cấp cứu, còn xe ô tô BKS: 28C-023.39 tiếp tục trôi xuống dốc theo quán tính rồi dừng lại đầu kéo của xe bị lật khiến xe ô tô và đầu kéo bị hư hỏng, thiệt hại xe ô tô và xe máy là 139.510.000 đồng. Hành vi điều khiển phương tiện giao thông đường bộ của Trần Đức T đã vi phạm khoản 1 Điều 12 Luật giao thông đường bộ, khoản 3 Điều 4, khoản 3 Điều 5 Thông tư 91/2015 quy định về tốc độ và khoảng cách an toàn của xe cơ giới, xe máy chuyên dùng tham gia giao thông trên đường bộ. Trên cơ sở đó có đầy đủ điều kiện, căn cứ kết luận bị cáo Trần Đức T phạm tội: Vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ theo điểm a, d khoản 1 Điều 260 Bộ luật hình sự.
[3] Về tính chất, mức độ nghiêm trọng của hành vi phạm tội, các tình tiết tăng nặng và giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Bị cáo chưa có tiền án, tiền sự, phạm tội thuộc trường hợp nghiêm trọng do lỗi vô ý, bị cáo là người hiểu biết Luật giao thông đường bộ, điều khiển tham gia giao thông có giấy phép lái xe ô tô, phương tiện giao thông có đầy đủ giấy tờ theo quy định. Sau khi phạm tội bị cáo đã thành khẩn khai báo ăn năn hối cải, đã tự nguyện bồi thường khắc phục hậu quả cho bị hại, là tình tiết giảm nhẹ đối với bị cáo được quy định tại điểm b, điểm s khoản 1 điều 51 Bộ luật hình sự. Đại diện hợp pháp của bị hại có đơn xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo nên Hội đồng xét xử cho bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ tại khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự. Nay Hội đồng xét xử thấy bị cáo phạm tội lần đầu chưa có tiền án, tiền sự, có nhân thân tốt, có nơi thường trú cụ thể rõ ràng, ngoài lần phạm tội luôn chấp hành đúng chính sách pháp luật, thực hiện đầy đủ nghĩa vụ công dân, có nhiều tình tiết giảm nhẹ được quy định tại khoản 1 điều 51 Bộ luật hình sự nên không cần cách ly bị cáo ra ngoài xã hội. Cần giao bị cáo Trần Đức T cho Uỷ ban nhân dân nơi cư trú của bị cáo phối hợp với gia đình bị cáo được trực tiếp quản lý, giám sát, giáo dục bị cáo. Vận dụng khoản 1, 2 điều 65 Bộ luật hình sự.
Bị cáo Trần Đức T đang tại ngoại, thời gian thi hành án phạt tù nhưng cho hưởng án treo được tính từ ngày tuyên án sơ thẩm.
Ngoài hình phạt chính là phạt tù, bị cáo Trần Đức T còn có thể phải chịu hình phạt bổ sung quy định tại khoản 5 điều 260, khoản 3 điều 65 Bộ luật hình sự. Hội đồng xét xử thấy nghề nghiệp chính và thu nhập của bị cáo sống chủ yếu vào nghề lái xe, gia đình điều kiện kinh tế khó khăn là lao động chính trong gia đình nên không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.
[4] Về vấn đề dân sự trong vụ án: Xét việc tự nguyện thoả thuận bồi thường dân sự giữa bị cáo, Đại diện hợp pháp của bị hại, bị đơn dân sự và người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan là có căn cứ phù hợp với thực tế khách quan. Cụ thể, bị cáo đã tự nguyện bồi thường thiệt hại cho đại diện hợp pháp của người bị hại bị hại bà Lê Thị Ng 180.000.000 đồng. Trong đó tiền mai táng phí 40.000.000 đồng, tổn thất tinh thần là 140.000.000 đồng. Bị cáo đã bồi thường thiệt hại cho anh Lê Cao Ng đối với thiệt hại của chiếc xe máy là 20.000.000 đồng, đại diện hợp pháp cho bị hại bà Lê Thị Ng, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan anh Lê Cao Ng không yêu cầu Trần Đức T bồi thường gì thêm. Bị đơn dân sự ông Đỗ Văn Tr không yêu cầu bị cáo phải bồi thường thiệt hại gì.
[5] Về vật chứng: Đối với xe ô tô BKS 28C-023.39 kéo rơ mooc BKS: 28R- 00088 và toàn bộ giấy tờ xe, Cơ quan điều tra đã trả lại cho chủ phương tiện là có căn cứ đúng pháp luật.
Đối với chiếc xe máy BKS: 26F4-7649 là tài sản của anh Lê Cao Ng, Viện kiểm sát trả lại anh Lê Cao Ng chiếc xe sau khi bị cáo đã bồi thường thiệt hại đối với chiếc xe là có căn cứ cần chấp nhận.
Đối với 01 gấy phép lái xe số 340001340142 hạng FC mang tên Trần Đức T là tài sản của bị cáo cần tuyên trả lại cho bị cáo.
[6] Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự theo quy định của pháp luật.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ điểm a, d khoản 1 Điều 260, điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51, khoản 1, 2 Điểu 65, Điều 48 Bộ luật hình sự, các Điều 584, 585, 589, 591 khoản 3 Điều 601 Bộ luật dân sự. Điểm b, khoản 3 Điều 106, khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự khoản 1 Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ quốc hội:
Tuyên bố bị cáo Trần Đức T phạm tội: Vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ.
Xử phạt bị cáo Trần Đức T 24 (hai mươi tư) tháng tù nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách là 48 (bốn mươi tám) tháng. Thời gian thử thách được tính từ ngày tuyên án sơ thẩm (09/10/2018).
Giao bị cáo Trần Đức T cho UBND xã M, huyện T, tỉnh Thái Bình trực tiếp quản lý, giám sát và giáo dục bị cáo trong thời gian thử thách.
Trong thời gian thử thách, nếu người được hưởng án treo cố ý vi phạm nghĩa vụ theo quy định của Luật Thi hành án hình sự 02 lần trở lên, thì Tòa án có thể quyết định buộc người đó phải chấp hành hình phạt tù của bản án đã cho hưởng án treo.
Trong trường hợp người được hưởng án treo thay đổi nơi cư trú thì thực hiện theo quy định tại khoản 1 Điều 69 của Luật Thi hành án hình sự.
Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với Trần Đức T.
2. Về trách nhiệm dân sự: Chấp nhận sự tự nguyện thỏa thuận của bị cáo và đại diện hợp pháp của người bị hại về phần bồi thường thiệt hại.
Chấp nhận sự tự nguyện thỏa thuận của bị cáo, bị đơn dân sự và người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan.
3. Về vật chứng: Chấp nhận Cơ quan điều tra trả lại phương tiện 01 xe ô tô đầu kéo BKS: 28C-023.39 kéo theo sơ mi rơ mooc BKS: 28 R-00088; 01 bình nén hơi kích thước 40x30 cm và toàn bộ giấy tờ kèm theo cho chủ sở hữu hợp pháp là ông Đỗ Văn Tr .
Chấp nhận Viện kiểm sát trả lại anh Lê Cao Ng chiếc xe máy BKS: 26F4-7649 là tài sản của anh Lê Cao Ng.
Trả lại cho bị cáo 01 gấy phép lái xe số 340001340142 hạng FC mang tên Trần Đức T.
4. Về án phí: Bị cáo phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.
5 . Về quyền kháng cáo: Bị cáo, bị đơn dân sự có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Đại diện hợp pháp cho bị hại, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án.
Bản án 97/2018/HS-ST ngày 09/10/2018 về tội vi phạm quy định tham gia giao thông đường bộ
Số hiệu: | 97/2018/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Vân Hồ - Sơn La |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 09/10/2018 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về