Bản án 97/2018/HS-PT ngày 10/10/2018 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH CÀ MAU

BẢN ÁN 97/2018/HS-PT NGÀY 10/10/2018 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 10 tháng 10 năm 2018 tại trụ sở Toà án nhân dân tỉnh Cà Mau xét xử phúc thẩm công khai vụ án hình sự phúc thẩm thụ lý số: 110/2018/TLPT-HS ngày 10 tháng 9 năm 2018 đối với bị cáo Trương Minh Đ do có kháng cáo của bị cáo đối với Bản án hình sự sơ thẩm số: 137/2018/HS-ST ngày 01/08/2018 của Toà án nhân dân thành phố Cà M.

- Bị cáo có kháng cáo:

Họ tên: Trương Minh Đ, sinh năm 1985 tại Cà Mau

Nơi cư trú: Số 349A, Khóm 1, Phường 1, thành phố Cà M, tỉnh Cà Mau; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Nghề nghiệp: Chạy xe honda khách; Trình độ học vấn: 05/12; Con ông Trương Chí T và bà Phan Kim P;

Vợ: Phạm Kim Y, Con: 02 người; Tiền án: Không; Tiền sự: 01 lần, ngày 30/01/2018 chủ tịch UBND phường 1, thành phố Cà M ra quyết định số 28/QĐ-UBND về việc áp dụng biện pháp giáo dục tại phường thời hạn 03 tháng về hành vi nghiện trái phép chất ma túy; Nhân thân: Ngày 27/4/2012 bị chủ tịch Ủy ban nhân dân thành phố Cà M,tỉnh Cà Mau ra quyết định đưa vào cơ sở chữa bệnh 18 tháng về hành vi nhiều lần sử dụng trái phép và nghiện chất ma túy, chấp hành xong ngày 02/11/2013. Bắt tạm giam ngày 13/4/2018 đến nay (Có mặt)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 18 giờ ngày 18/3/2018, Trương Minh Đ điều khiển xe mô tô biển kiểm soát số 69 B1-225.13 chạy từ Phường 1, thành phố Cà M đến bến xe Cà Mau thuộc Phường 6, thành phố Cà M gặp người phụ nữ tên L (không biết họ và địa chỉ) hỏi mua ma túy để sử dụng thì L dẫn Đ đến gặp người thanh niên tên P (không biết họ và địa chỉ) rồi L bỏ đi. Đ mua của P 01 bịch ma túy với giá 1.200.000 đồng. Sau khi mua ma túy xong, Đ cất giấu trong túi quần bên phải phía trước rồi điều khiển xe chạy đến nhà nghỉ Hòa B thuộc Khóm 5, Phường 6, thành phố Cà M thuê phòng số 109 để sử dụng. Đến khoảng 16 giờ 00 ngày 19/3/2018, Lê Thị Minh T1, sinh ngày 10/9/2000, ngụ Khóm 4, Phường 4, thành phố Cà M và Trần Kim T2, sinh ngày 25/01/2001, ngụ Khóm 2, Phường 9, thành phố Cà M đến phòng số 109 gặp Đ để lấy điện thoại (vì Đ mượn điện thoại của Trang). Lúc này, Đ rủ T1 và T2 sử dụng ma túy thì cả hai đồng ý. Sau khi cả ba sử dụng ma túy xong thì Đội điều tra tội phạm về ma túy Công an thành phố Cà M kết hợp với Công an Phường 6, thành phố Cà M, Cụm đặc nhiệm phòng chống tội phạm ma túy số 4 – Bộ Tư lệnh Cảnh sát biển tiến hành kiểm tra và bắt quả tang Đ cất giấu 02 bịch ma túy trong túi quần Jean bên phải phía trước.

Tại kết luận giám định số 135/KLGĐ-PC54 ngày 22/3/2018 của Phòng kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Vĩnh Long, kết luận: Mẫu tinh thể rắn trong suốt bên trong 02 bịch nylon trong phong bì được niêm phong gửi giám định là ma túy, có khối lượng 2,3752 gam, loại Methamphetamine.

Tại bản án hình sự sơ thẩm số 137/2018/HS-ST ngày 01 tháng 8 năm 2018 của Toà án nhân dân thành phố Cà M quyết định:

Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự; Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự.

Căn cứ Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự và điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết 326 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

1. Về tội danh: Tuyên bố bị cáo Trương Minh Đ phạm tội “ Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

2. Về hình phạt:

Xử phạt bị cáo Trương Minh Đ 03 ( Ba) năm tù, thời hạn tù tính từ ngày bị cáo bị bắt tạm giam ngày 13/4/2018.

Ngoài ra, án sơ thẩm còn tuyên về xử lý vật chứng, án phí và quyền kháng cáo theo pháp luật quy định.

Ngày 10 tháng 8 năm 2018, bị cáo Trương Minh Đ có đơn kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt.

Tại phiên tòa, bị cáo giữ nguyên nội dung kháng cáo.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Cà Mau tham gia phiên toà đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm a khoản 1 Điều 355 và Điều 356 Bộ luật tố tụng hình sự, không chấp nhận yêu cầu kháng cáo của bị cáo, giữ nguyên bản án sơ thẩm về hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1]. Khoảng 16 giờ 20 phút ngày 19/3/2018, Đội điều tra tội phạm về ma túy Công an thành phố Cà M kết hợp với Công an phường 6, thành phố Cà M, Cụm đặc nhiệm phòng chống tội phạm ma túy số 4 – Bộ Tư lệnh Cảnh sát biển tiến hành kiểm tra phòng số 109 nhà nghỉ Hòa B, thuộc Khóm 5, Phường 6, thành phố Cà M và thu giữ trong túi quần Jean bên phải phía trước của Trương Minh Đ 02 bịch nylon bên trong đều có chứa tinh thể trong suốt dạng rắn nghi là ma túy.

Tại kết luận giám định số 135/KLGĐ-PC54 ngày 22/3/2018 của Phòng kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Vĩnh Long, kết luận: Mẫu tinh thể rắn này là ma túy, có khối lượng 2,3752 gam, loại Methamphetamine.

Quá trình điều tra, bị cáo khai nhận bị cáo tàng trữ số ma túy này nhằm mục đích sử dụng dần. Sau khi chưa sử dụng ma túy thì bị bắt quả tang.

Tại biên bản v/v thử nước tiểu phát hiện nhanh chất ma túy vào lúc 18 giờ 00 phút ngày 19/3/2018 đối với Trương Minh Đ có kết quả: Đ có sử dụng chất ma túy, loại Methamphetamine.

Do đó, Bản án hình sự sơ thẩm số 137/2018/HS-ST ngày 01 tháng 8 năm 2018 của Toà án nhân dân thành phố Cà M xét xử bị cáo về tội “ Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự là có căn cứ.

[2]. Xét kháng cáo của bị cáo thấy rằng: Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm chính sách độc quyền quản lý của Nhà nước về các chất ma tuý, xâm phạm trật tự an toàn xã hội. Khi sử dụng chất ma túy, bị cáo còn rủ rê Lê Thị Minh T1 và Trần Kim T2, là người chưa thành niên cùng sử dụng ma túy với bị cáo. Hành vi của bị cáo không những làm ảnh hưởng đến sức khỏe con người mà còn gián tiếp gây ra các tệ nạn trong xã hội khác. Bản thân bị cáo đã bị áp dụng biện pháp cai nghiện bắt buộc vào năm 2012. Sau khi chấp hành xong, bị cáo lại tiếp tục tái nghiện và bị Chủ tịch Ủy ban nhân dân Phường 1 áp dụng biện pháp giáo dục tại phường là 03 tháng, kể từ ngày 30/01/2018 với hình thức tự cai nghiện tại gia đình và cộng đồng. Trong thời gian này, bị cáo không những không quyết tâm cai nghiện để cải sửa lỗi lầm của mình mà còn tiếp tục thực hiện hành vi tàng trữ, sử dụng trái phép chất ma túy.

Án sơ thẩm đã xem xét đầy đủ, toàn diện các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và xử phạt bị cáo 03 (ba) năm tù là tương xứng với tính chất, mức độ và hậu quả do hành vi phạm tội của bị cáo gây ra.

Do đó, kháng cáo của bị cáo không được Hội đồng xét xử chấp nhận.

[3]. Án phí hình sự phúc thẩm bị cáo phải chịu theo quy định pháp luật

[4]. Các nội dung khác của quyết định án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị, có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo kháng nghị nên không đặt ra xem xét.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ điểm a khoản 1 Điêu 355, Điều 356 của Bộ luật tố tụng hình sự;

Không chấp nhận kháng cáo của bị cáo Trương Minh Đ

Giữ nguyên bản án hình sự sơ thẩm số 137/2018/HS-ST ngày 01 tháng 8 năm 2018 của Toà án nhân dân thành phố Cà M

Áp dụng: Điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự; Điều 106, Điều 136 Bộ luật Tố tụng Hình sự và điểm a khoản 1, điểm b khoản 2 Điều 23 Nghị quyết 326 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Xử phạt: Bị cáo Trương Minh Đ 03 ( ba) năm tù về tội “ Tàng trữ trái phép chất ma túy”, thời hạn tù tính từ ngày 13/4/2018.

Về án phí: Bị cáo Đ phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm và 200.000 đồng án phí hình sự phúc thẩm.

Các quyết định khác của án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

299
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 97/2018/HS-PT ngày 10/10/2018 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:97/2018/HS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Cà Mau
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 10/10/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về