Bản án 96/2020/HS-ST ngày 28/12/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN CHÂU THÀNH, TỈNH TÂY NINH

BẢN ÁN 96/2020/HS-ST NGÀY 28/12/2020 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 28 tháng 12 năm 2020 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Châu Thành, tỉnh Tây Ninh xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 97/2020/TLST-HS ngày 18 tháng 11 năm 2020 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 98/2020/QÐXXST-HS ngày 15 tháng 12 năm 2020 đối với bị cáo:

Lê Tấn Đ (C), sinh năm 1986, tại tỉnh Tây Ninh; nơi cư trú: Ấp B, xã A, huyện C, tỉnh Tây Ninh; nghề nghiệp: Làm mướn; trình độ văn hoá (học vấn):

10/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Lê Tấn T1 và bà Cao Mai T; vợ, con: Chưa có; tiền án: tiền sự: Không có; nhân thân: Ngày 31/8/2010 bị Tòa án nhân dân huyện Châu Thành, tỉnh Tây Ninh xử phạt 03 năm 06 tháng tù về tội “Cố ý gây thương tích” theo quy định tại khon 2 Điều 104 Bộ luật Hình sự (đã xóa án tích); tạm giữ từ ngày 04/10/2020, chuyển tạm giam từ ngày 07/10/2020 đến nay. (có mặt) Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án: Anh Lê Quốc V, sinh năm 1988; nơi cư trú: Ấp B, xã A, huyện C, tỉnh Tây Ninh. (vắng mặt)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào lúc 02 giờ 30 phút ngày 04/10/2020 tại ấp Suối Muồn, xã Thái Bình, huyện Châu Thành, tỉnh Tây Ninh, Công an huyện Châu Thành kiểm tra bắt quả tang bị cáo Lê Tấn Đ đang cất giấu trong túi quần bên trái phía trước 01 bịch nylon màu trắng được hàn kín (ký hiệu M), bên trong có chứa tinh thể rắn màu trắng nên tiến hành lập biên bản bắt người phạm tội quả tang và thu giữ nhiều vật chứng có liên quan.

Quá trình điều tra chứng minh được: Khoảng 00 giờ 30 phút ngày 04/10/2020, bị cáo Lê Tấn Đ nhờ Lê Quốc V, sinh năm 1988, ngụ ấp Thanh Bình, xã An Bình, huyện Châu Thành, tỉnh Tây Ninh chở bị cáo Đ xuống nhà Trương Quốc K, sinh năm 1988, ngụ khu phố 5, phường 1, thành phố Tây Ninh chơi thì V đồng ý. Sau đó, V điều khiển xe mô tô biển số 70E1-338.11 chở bị cáo Đ đến nhà K. Đến nơi, K, bị cáo Đ và V ngồi nói chuyện được khoảng 10 phút thì K lén lút đưa cho bị cáo Đ 01 bịch ma túy, sau đó bị cáo Đ cất giấu bịch ma túy này vào túi quần bên trái phía trước rồi kêu V chở bị cáo Đ về nhà V. Tại đây, trong lúc V đi uống nước, bị cáo Đ lấy ra một ít ma túy bỏ vào dụng cụ và kêu V cùng sử dụng, phần còn lại thì hàn kín rồi cất giấu vào túi quần phía trước bên trái. Sau khi sử dụng ma túy, V điều khiển xe mô tô biển số 70E1-338.11 chở bị cáo Đ về chỗ làm việc của bị cáo Đ tại khu vực ấp Bắc Bến Sỏi, xã Thành Long, huyện Châu Thành, tỉnh Tây Ninh. Khi đi đến khu vực cổng văn hóa ấp Suối Muồn, xã Thái Bình, huyện Châu Thành, tỉnh Tây Ninh thì bị lực lượng Công an kiểm tra bắt quả tang và thu giữ tang vật.

Tại Kết luận giám định số 1634/KL-KTHS ngày 06/10/2020 của Phòng Kỹ thuật Hình sự Công an tỉnh Tây Ninh kết luận: Mẫu tinh thể rắn màu trắng bên trong 01 (một) bịch nylon màu trắng được hàn kín (ký hiệu M) gửi đến giám định là chất ma túy; loại Methamphetamine, khối lượng 1,1398 gam.

Đối với Trương Quốc K đã bỏ địa phương đi đâu không rõ, chưa làm việc được, khi nào làm rõ xử lý sau.

Đối với Lê Quốc V không biết việc bị cáo Lê Tấn Đ tàng trữ trái phép chất ma túy nên không xem xét xử lý.

Qua xác minh, bị cáo không có tài sản nên không tiến hành kê biên tài sản.

Cáo trạng số: 103/CT-VKSCT ngày 18 tháng 11 năm 2020 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Châu Thành, tỉnh Tây Ninh đã truy tố bị cáo Lê Tấn Đ về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Châu Thành, tỉnh Tây Ninh trong phần tranh luận đã giữ nguyên quyết định truy tố bị cáo về tội danh nêu trên đồng thời đề nghị Hội đồng xét xử:

- Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 38 Bộ luật Hình sự, xử phạt bị cáo Lê Tấn Đ từ 01 (một) đến 02 (hai) năm tù; không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

- Về xử lý vật chứng: Căn cứ Điều 47 Bộ luật Hình sự, Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự: Xử lý vật chứng theo quy định của pháp luật.

Bị cáo Lê Tấn Đ thống nhất với bản cáo trạng và luận tội của đại diện Viện kiểm sát, không có ý kiến bào chữa cho mình.

Lời nói sau cùng của bị cáo Lê Tấn Đ: Xin xử giảm nhẹ cho bị cáo để sớm quay về với gia đình.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện Châu Thành, tỉnh Tây Ninh, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Châu Thành, tỉnh Tây Ninh, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về tội danh: Trong quá trình điều tra, cũng như tại phiên toà, bị cáo đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình theo đúng nội dung bản Cáo trạng mà Viện kiểm sát đã truy tố. Xét lời khai nhận của bị cáo phù hợp với biên bản bắt người phạm tội quả tang, kết luận giám định cùng các tài liệu chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án chứng minh được vào lúc 02 giờ 30 phút ngày 04/10/2020 tại ấp Suối Muồn, xã Thái Bình, huyện Châu Thành, tỉnh Tây Ninh, bị cáo Lê Tấn Đ có hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy loại Methamphetamine, khối lượng 1,1398 gam nhằm mục đích sử dụng. Do đó, có đủ cơ sở kết luận bị cáo Lê Tấn Đ phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, tội phạm và hình phạt được quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự. Vì vậy, Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân huyện Châu Thành, tỉnh Tây Ninh truy tố bị cáo về tội phạm nêu trên là có căn cứ.

[3] Vụ án mang tính chất nghiêm trọng, hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, trực tiếp xâm phạm đến quy định của Nhà nước về quản lý chất ma túy nên phải chịu trách nhiệm hình sự. Bị cáo nhận thức được hành vi của mình là nguy hiểm cho xã hội nhưng vì thoả mãn cơn nghiện vẫn thực hiện hành vi phạm tội nên cần xử lý nghiêm, cách ly bị cáo khỏi xã hội một thời gian mới đủ để cải tạo, giáo dục bị cáo thành công dân tốt, nhằm đạt được mục đích giáo dục riêng và phòng ngừa chung cho xã hội. Tuy nhiên, khi quyết định hình phạt cũng xem xét đến nhân thân người phạm tội, các tình tiết tăng nặng và giảm nhẹ trách nhiệm hình sự.

[3.1] Về nhân thân của bị cáo: Ngày 31/8/2010 bị Tòa án nhân dân huyện Châu Thành, tỉnh Tây Ninh xử phạt 03 năm 06 tháng tù về tội “Cố ý gây thương tích” theo quy định tại khoản 2 Điều 104 Bộ luật Hình sự (đã xóa án tích).

[3.2] Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự của bị cáo: Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.

[3.3] Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị cáo: Trong quá trình điều tra và tại phiên toà, bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự.

[3.4] Vì vậy, mức hình phạt mà đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Châu Thành, tỉnh Tây Ninh đề nghị là có căn cứ để xem xét.

[4] Về hình phạt bổ sung: Xét thấy bị cáo không có tài sản, không có khả năng thi hành hình phạt bổ sung bằng tiền nên không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

[5] Về xử lý vật chứng: Căn cứ Điều 47 Bộ luật Hình sự, Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự:

- Đối với 01 (một) gói niêm phong ghi “vụ 1634/KL-KTHS”, có dấu tròn đỏ của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Tây Ninh, có chữ ký của giám định viên Nguyễn Thị Tuyết Mai, trợ lý giám định Lê Quốc Tấn là chất ma tuý, thuộc loại Nhà nước cấm tàng trữ nên tịch thu tiêu huỷ.

- Đối với 01 (một) điện thoại di động nhãn hiệu: NOKIA, màu đen, số IMEI: 357698102116902 (đã qua sử dụng) không là vật chứng của vụ án nên trả lại cho bị cáo.

- Đối với 01 (một) xe mô tô, nhãn hiệu Honda Dream, màu đỏ, biển số: 70E1-33811, số máy: VHH1P50 FMG 301014636, số khung: PCG0021U- 014636 (đã qua sử dụng) không là vật chứng của vụ án nên trả lại cho anh Lê Quốc V.

[6] Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm là 200.000 (hai trăm nghìn) đồng theo quy định tại khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng Hình sự;

điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

1. Tuyên bố bị cáo Lê Tấn Đ (C) phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”  Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 38 Bộ luật Hình sự.

Xử phạt bị cáo Lê Tấn Đ 02 (hai) năm tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 04/10/2020.

2. Về vật chứng: Căn cứ Điều 47 Bộ luật Hình sự, Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự.

- Tịch thu tiêu hủy: 01 (một) gói niêm phong ghi “vụ 1634/KL-KTHS”, có dấu tròn đỏ của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Tây Ninh, có chữ ký của giám định viên Nguyễn Thị Tuyết Mai, trợ lý giám định Lê Quốc Tấn.

- Trả lại cho bị cáo Đ: 01 (một) điện thoại di động nhãn hiệu: NOKIA, màu đen, số IMEI: 357698102116902 (đã qua sử dụng).

- Trả lại cho anh Lê Quốc V: 01 (một) xe mô tô, nhãn hiệu Honda Dream, màu đỏ, biển số: 70E1-33811, số máy: VHH1P50 FMG 301014636, số khung: PCG0021U-014636 (đã qua sử dụng).

(Vật chứng nêu trên hiện đang lưu giữ tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện Châu Thành, tỉnh Tây Ninh theo biên bản giao, nhận vật chứng ngày 24/11/2020).

3. Án phí: Căn cứ khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng Hình sự; điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Bị cáo Lê Tấn Đ phải chịu 200.000 (hai trăm nghìn) đồng án phí hình sự sơ thẩm.

4. Về quyền kháng cáo:

Bị cáo được quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án được quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày nhận được bản án hoặc ngày bản án được niêm yết theo quy định của pháp luật.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

229
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 96/2020/HS-ST ngày 28/12/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:96/2020/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Châu Thành - Tây Ninh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 28/12/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về