Bán án 96/2018/HNGĐ-ST ngày 04/10/2018 về tranh chấp ly hôn

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ L, TỈNH AN GIANG

BÁN ÁN 96/2018/HNGĐ-ST NGÀY 04/10/2018 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN

Ngày 04 tháng 10 năm 2018 tại Tòa án nhân dân thành phố L xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 350/2018/TLST-HNGĐ ngày 21 tháng 5 năm 2018 về “Tranh chấp ly hôn” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 112/2018/QĐXXST - HNGĐ ngày 24 tháng 8 năm 2018 và Quyết định hoãn phiên tòa số 81/2018/QĐST-HNGĐ ngày 13/9/2018 giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Chị Võ Thị Thanh P, sinh năm 1992. Có mặt 

ĐKHKTT: số 1179/8A, khóm A, phường H, thành phố L, tỉnh An Giang (chuyển đổi ĐKHKTT về địa chỉ: số 206/26, ấp B, xã V, huyện S, tỉnh An Giang).

2. Bị đơn: Anh Văn Đức H, sinh năm 1981. Vắng mặt

ĐKHKTT: số 1179/8A, khóm A, phường H, thành phố L, tỉnh An Giang.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Tại đơn khởi kiện đề ngày 24/4/2018, sửa đổi bổ dung đơn khởi kiện ngày 09/5/2018 và quá trình tố tụng tại Tòa án, nguyên đơn chị Võ Thị Thanh P trình bày:

Về quan hệ hôn nhân: Chị P và anh H quen biết, tìm hiểu và tự nguyện tiến đến hôn nhân và đăng ký kết hôn vào ngày 27/3/2015 tại Ủy ban nhân dân phường H, thành phố L, đây là hôn nhân lần thứ nhất của chị và anh H. Sau khi kết hôn, vợ chồng sống hạnh phúc đến năm 2016 thì phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân do anh H thường xuyên uống rượu, không lo làm ăn, không có trách nhiệm với gia đình, chị P đã nhiều lần khuyên nhủ nhưng anh H không thay đổi nên cả hai đã ly thân khoảng 01 năm. Hiện tình cảm không còn, mục đích hôn nhân không đạt được nên chị P yêu cầu Tòa án giải quyết ly hôn với anh H.

Về quan hệ con chung: Chị P và anh H có 01 con chung tên Văn Ngọc Thủy T, sinh ngày 11/01/2015. Hiện con chung đang sống với chị P. Sau ly hôn, chị P yêu cầu được tiếp tục nuôi con

Về cấp dưỡng nuôi con: Không yêu cầu anh H cấp dưỡng nuôi con.

Về tài sản chung, nợ chung: Không có.

* Bị đơn anh Văn Đức H vắng mặt trong quá trình tố tụng, không gửi văn bản trình bày ý kiến, chứng cứ chứng minh đối với yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn:

Tại phiên tòa hôn nhân và gia đình sơ thẩm:

* Nguyên đơn chị Võ Thị Thanh P vẫn giữ nguyên yêu cầu khởi kiện. Về hôn nhân: yêu cầu Tòa án xem xét giải quyết cho chị P được ly hôn với anh H, vì cả hai có nhiều mâu thuẫn không thể hàn gắn; Về con chung: yêu cầu được nuôi con chung và không yêu cầu anh H cấp dưỡng nuôi con; Về tài sản chung, nợ chung: không có.

* Đại diện Viện kiểm sát nhân dân phát biểu ý kiến: Về việc tuân theo pháp luật của Thẩm phán, thành phần Hội đồng xét xử cũng như xác định quan hệ tranh chấp, việc chấp hành pháp luật của người tham gia tố tụng trong vụ án đúng theo quy định tại Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015. Về nội dung vụ án, đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu ly hôn của nguyên đơn theo quy định tại Điều 51, Điều 56 Luật Hôn nhân và Gia đình; Về con chung: hiện con chung đang sống với chị P, đề nghị HĐXX chấp nhận yêu cầu của chị P được quyền nuôi con; Về cấp dưỡng nuôi con: anh H không phải cấp dưỡng nuôi con do chị P không yêu cầu; Về tài sản chung, nợ chung: chị P cho rằng không có tài sản chung nên đề nghị không xét đến.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên Tòa, căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa và ý kiến của Kiểm sát viên. Hội đồng đét xử nhận định:

Về thủ tục tố tụng:

[1] Tranh chấp giữa chị Võ Thị Thanh P và anh Văn Đức H là tranh chấp về hôn nhân và gia đình theo quy định tại khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015.

[2] Bị đơn có đăng ký thường trú tại phường H, thành phố L nên nguyên đơn khởi kiện thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân thành phố L theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 39 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015.

[3] Bị đơn anh Văn Đức H vắng mặt tại phiên tòa lần thứ hai nhưng Tòa án đã tiến hành tống đạt trực tiếp, niêm yết các văn bản tố tụng cho bị đơn hợp lệ. Như vậy, từ khi Tòa án thụ lý đến ngày xét xử vụ án bị đơn đã từ chối các quyền, cũng như không thực hiện nghĩa vụ của bị đơn theo quy định tại Điề u 70, Điều 72 Bộ luật tố tụng dân sự 2015.

[4] Bị đơn có địa chỉ cư trú rõ ràng, địa phương vẫn còn quản lý nhân khẩu. Do đó, căn cứ vào điểm b khoản 2 Điều 227, khoản 3 Điều 228, điểm b khoản 1 Điều 238 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015; Điều 6 Nghị quyết số 04/2017/NQ-HĐTP ngày 05/5/2017. Hội đồng xét xử quyết định xét xử vắng mặt anh Văn Đức H.

Về nội dung tranh chấp:

[1] Về hôn nhân: Nguyên đơn, bị đơn tiến đến hôn nhân xuất phát từ sự nguyện, có đăng ký kết hôn theo qui định của pháp luật, phù hợp Điều 8, Điều 9 của Luật hôn nhân và gia đình năm 2014 nên đây là quan hệ hôn nhân hợp pháp được pháp luật công nhận. Tuy nhiên, quá trình chung sống chị P cho rằng vợ chồng phát sinh nhiều mâu thuẫn, nguyên nhân do bất đồng quan điểm, thiếu chia sẻ, cảm thông nhau trong đời sống vợ chồng, anh H thường xuyên uống rượu, không có trách nhiệm với gia đình, chị P đã nhiều lần khuyên nhủ và cho cơ hội nhưng anh H không thay đổi nên cuộc sống hôn nhân không hạnh phúc nhưng anh H không có ý kiến phản đối.

Xét thấy, trong hôn nhân vợ chồng phải thể hiện tình cảm yêu thương, quan tâm chăm sóc, tin tưởng nhau và chia sẻ những khó khăn để vượt qua thử thách, đây là cơ sở vững chắc để bồi đắp cho hôn nhân, cho gia đình hạnh phúc. Giữa nguyên đơn, bị đơn đã có thời gian quen biết, tìm hiểu và tiến đến hôn nhân xuất phát từ tình cảm yêu thương, nhưng khi đã thành vợ chồng thì cả hai không xây dựng gia đình hạnh phúc. Tại biên bản xác minh tình trạng hôn nhân ngày 19/7/2018 được chính quyền địa phương xác nhận “Không rõ nguyên nhân mâu thuẫn giữa anh H và chị P” nhưng thực tế chị P cho rằng mâu thuẫn vợ chồng đã phát sinh từ năm 2016. Mặt khác, chị P cho rằng vợ chồng đã ly thân hơn 01 năm nên hôn nhân không tồn tại, vợ chồng không còn thực hiện quyền và nghĩa vụ với nhau, không còn tình cảm yêu thương, chăm sóc nhau, điều này thể hiện mâu thuẫn vợ chồng đã trầm trọng, mục đích hôn nhân không đạt được. Do đó, việc nguyên đơn yêu cầu ly hôn là có căn cứ, phù hợp với Điều 39 Bộ luật dân sự năm 2015; Điều 51; Điều 56 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014.

[2] Về con chung: Chị P và anh H có 01 con chung tên Văn Ngọc Thủy T, sinh ngày 11/01/2015. Chị P yêu cầu được nuôi con chung sau ly hôn nhưng anh H không có ý kiến phản đối.

Xét thấy, tại biên bản xác minh ngày 19/7/2018, chính quyền địa phương không xác nhận ai đang chăm sóc, nuôi dưỡng con chung nhưng thực tế cũng như tại phiên tòa chị P xác định đang chăm sóc nuôi dưỡng cháu T. Do đó, để tạo điều kiện thuận lợi cho việc phát triển tốt về thể chất, tinh thần và đảm bảo cho việc học hành cho con chung cũng như xem xét điều kiện, hoàn cảnh và thu nhập cá nhân của chị P (công nhân may). Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu của chị P được quyền trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con chung.

Chị Phương và gia đình của chị P phải tạo điều kiện cho anh H được thăm nom, chăm sóc, giáo dục con chung. Việc nuôi con không cố định.

[3] Về cấp dưỡng nuôi con: Chị P không yêu cầu anh H cấp dưỡng nuôi con chung nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[4] Về tài sản chung: Chị P cho rằng không có tài sản chung, anh H không có ý kiến phản đối nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[5] Về nợ chung: Không có

[6] Về án phí hôn nhân sơ thẩm: Nguyên đơn chị Võ Thị Thanh P phải nộp 300.000 đồng (ba trăm nghìn đồng) án phí hôn nhân sơ thẩm theo qui định pháp luật.

[7] Về quyền kháng cáo: Nguyên đơn, bị đơn được quyền kháng cáo theo quy định pháp luật.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Khoản 1 Điều 28; điểm a khoản 1 Điều 35; điểm a khoản 1 Điều 39; khoản 4 Điều 147; điểm b khoản 2 Điều 227; khoản 3 Điều 228; Điều 235; điểm b khoản 1 Điều 238; Điều 266; khoản 1 Điều 273; khoản 1 Điều 280 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015; Điều 39 Bộ luật dân sự năm 2015; Điều 51; Điều 56; Điều 81; Điều 82; Điều 83 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014; Điều 6 Nghị quyết số 04/2017/NQ-HĐTP ngày 05/5/2017 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao; Điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và án phí Tòa án;

Xử vắng mặt bị đơn Văn Đức H.

* Xử: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn

[1] Về quan hệ hôn nhân: Chị Võ Thị Thanh P được ly hôn với anh Văn Đức H.

[2] Về con chung: Chị Võ Thị Thanh P được quyền trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con chung Văn Ngọc Thủy T, sinh ngày 11/01/2015.

Chị Phương và gia đình của chị P phải tạo điều kiện cho anh H được thăm nom, chăm sóc, giáo dục con chung. Việc nuôi con không cố định.

[3] Về cấp dưỡng nuôi con: Anh H không phải cấp dưỡng nuôi con, do chị P không yêu cầu.

[4] Về tài sản chung: Không xem xét, giải quyết.

[5] Về nợ chung: Không có

[6] Về án phí hôn nhân sơ thẩm: Nguyên đơn Võ Thị Thanh P phải nộp 300.000 đồng (ba trăm nghìn đồng) án phí hôn nhân sơ thẩm theo qui định pháp luật, số tiền này được khấu trừ vào 300.000đ (ba trăm nghìn đồng) tiền tạm ứng án phí đã nộp tại Chi cục thi hành án dân sự thành phố L theo biên lai thu số 0008262 ngày 21/5/2018. Nguyên đơn đã thực hiện xong nghĩa vụ nộp án phí.

[7] Về quyền kháng cáo:

Nguyên đơn được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Bị đơn được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc Tòa án niêm yết bản án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

248
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bán án 96/2018/HNGĐ-ST ngày 04/10/2018 về tranh chấp ly hôn

Số hiệu:96/2018/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Long Xuyên - An Giang
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 04/10/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về