Bản án 96/2017/HNGĐ-ST ngày 31/10/2017 về tranh chấp ly hôn

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ LONG XUYÊN, TỈNH AN GIANG

BẢN ÁN 96/2017/HNGĐ-ST NGÀY 31/10/2017 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN

Ngày 31 tháng 10 năm 2017 tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Long Xuyên, tỉnh An Giang xét xử sơ thẩm công khai vụ án hôn nhân gia đình thụ lý số: 446/2017/TLST–HNGĐ ngày 21 tháng 8 năm 2017 về việc “Tranh chấp ly hôn” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 111/2017/QĐXXST – HNGĐ ngày 11 tháng 10 năm 2017 giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Anh Vũ Ngọc H, sinh năm 1979. (Vắng mặt)

Nơi cư trú: B, xã N, huyện B, tỉnh Quảng Bình.

- Bị đơn: Chị Nguyễn Phạm Thị Như H, sinh năm 1981. (Vắng mặt)

Nơi cư trú: đường T, khóm 5, phường M, thành phố L, tỉnh An Giang.

NỘI DUNG VỤ ÁN

* Tại đơn khởi kiện đề ngày 18/8/2017 và bản tự khai ngày 31/8/2017, nguyên đơn anh Vũ Ngọc H trình bày:

- Về quan hệ hôn nhân: Anh và chị Nguyễn Phạm Thị Như H do quen biết và tự nguyện tiến đến hôn nhân có đăng ký kết hôn ngày 21/8/2006 tại UBND phường Mỹ Long, thành phố Long Xuyên, tỉnh An Giang. Hôn nhân lần thứ nhất của cả hai.

Sau khi kết hôn được vài tháng thì anh chị phát sinh mâu thuẫn, chị H về nhà cha mẹ ruột sinh sống và anh chị ly thân. Do đó nay anh yêu cầu Tòa án ly hôn với chị H.

-Về quan hệ con chung: Anh và chị Nguyễn Phạm Thị Như H có 01 (một) con chung tên Nguyễn Như H, sinh ngày 10/12/2006. Chị H đang  nuôi dưỡng con chung nên anh không tranh chấp việc nuôi con chung.

- Về quan hệ tài sản chung và nợ chung: Anh và chị H không có tài sảnchung, nợ chung nên không yêu cầu Tòa án giải quyết.

* Theo bản tự khai ngày 24/8/2017 bị đơn chị Nguyễn Phạm Thị Như Htrình bày:

- Về quan hệ hôn nhân: Chị thống nhất với ý kiến của anh Vũ Ngọc H về thời gian xác lập quan hệ hôn nhân và chung sống. Nay qua yêu cầu ly hôn của anh H, chị đồng ý ly hôn, do nhận thấy chị và anh H đã ly thân nhiều năm nay, quan hệ vợ chồng giữa anh chị không còn tồn tại.

-Về quan hệ con chung: Chị và anh Vũ Ngọc H có 01 (một) con chung tên Nguyễn Như H, sinh ngày 10/12/2006. Chị đang nuôi dưỡng con chung nên chị yêu cầu được tiếp tục nuôi dưỡng cháu và không yêu cầu anh H cấp dưỡng nuôi con.

- Về quan hệ tài sản chung và nợ chung: Chị và anh H không có tài sản chung và nợ chung nên không yêu cầu Tòa án giải quyết.

NHẬN ĐỊNH CỦA HỘI ĐỒNG XÉT XỬ

[1] Về thủ tục tố tụng: Nguyên đơn anh Vũ Ngọc H và bị đơn chị Nguyễn Phạm Thị Như H có đơn có ý kiến xin vắng mặt trong quá trình Tòa án giải quyết vụ án. Căn cứ khoản 1 Điều 227 và khoản 1 Điều 228 Bộ luật tố tụng dân sự, Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt anh H và chị H.

[2] Về quan hệ hôn nhân: Anh Vũ Ngọc H và chị Nguyễn Phạm Thị Như H kết hôn lần thứ nhất trên cơ sở tự nguyện vào năm 2006 và đăng ký kết hôn ngày 21/8/2006 tại UBND phường Mỹ Long, thành phố Long Xuyên, tỉnh An Giang, nên được pháp luật công nhận là vợ chồng theo qui định tại Điều 8 và Điều 9 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014. Nay vợ chồng anh H, chị H phát sinh mâu thuẫn, anh H xin ly hôn nên Tòa án thụ lý giải quyết là phù hợp các qui định của pháp luật tại khoản 1 Điều 28 và khoản 1 Điều 35 Bộ luật tố tụng dân sự.

Qua lời trình bày của các đương sự trong tự khai, Hội đồng xét xử xét thấy thời gian qua anh chị đã không có sự quan tâm, chăm sóc, tôn trọng, thương yêu lẫn nhau thể hiện qua việc anh chị thừa nhận chỉ sau một thời gian ngắn chung sống đã phát sinh mâu thuẫn và anh chị đã ly thân – chị H đã chuyển về Nam sinh sống cùng cha mẹ ruột; sau đó anh chị không tạo điều kiện để vợ chồng hàn gắn hạnh phúc. Nay anh, chị nhận thấy cuộc sống chung không còn hạnh phúc, tình cảm vợ chồng không còn nên qua yêu cầu xin ly hôn của anh H, chị H đồng ý ly hôn. Hội đồng xét xử nhận thấy sự thoả thuận đồng ý ly hôn của anh H và chị H không trái pháp luật nên căn cứ Điều 55 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014, công nhận sự tự nguyện thuận tình ly hôn của anh H và chị H.

[3] Về quan hệ con chung: Anh H và chị H thống nhất có 01 (một) con chung tên Nguyễn Như H, sinh ngày 10/12/2006 và hiện chị H đang  nuôi dưỡng con chung. Sau khi ly hôn, anh H có ý kiến không tranh chấp việc nuôi con; chị H có ý kiến yêu cầu được tiếp tục nuôi dưỡng cháu Hải và không yêu cầu anh H cấp dưỡng nuôi con chung. Hội đồng xét xử xét thấy, chị H đang là người trực tiếp nuôi dưỡng con chung và cháu Hải cũng có nguyện vọng được sống cùng với mẹ và ngoại (tờ trình bày ý kiến ngày 11/9/2017 của cháu Nguyễn Như H). Do đó, xét về quyền lợi mọi mặt của con chung và để ổn định về sinh hoạt, mặt tâm lý cho con chung, Hội đồng xét xử xét thấy việc chị H yêu cầu được tiếp tục nuôi dưỡng con chung là có cơ sở chấp nhận. Do chị H không yêu cầu anh H cấp dưỡng nuôi con chung nên Hội đồng xét xử không xem xét.

Chị H phải tạo điều kiện cho anh H được thăm nom, chăm sóc, giáo dục con chung. Việc nuôi con không cố định.

[4] Về quan hệ tài sản chung và nợ chung: Theo anh H và chị H thống nhất không có tài sản chung và nợ chung nên không yêu cầu Tòa án giải quyết về quan hệ  tài sản chung và nợ chung. Vì vậy, Hội đồng xét xử không đặt ra để xem xét giải quyết.

[5] Về án phí sơ thẩm:  Anh Vũ Ngọc H phải nộp số tiền 300.000đ (Ba trăm nghìn đồng) án phí hôn nhân sơ thẩm, nhưng được khấu trừ vào số tiền 300.000đ (Ba trăm nghìn đồng) tạm ứng án phí đã nộp theo biên lai thu số 0017994 ngày 21/8/2017 của Chi cục thi hành án dân sự Tp.Long Xuyên.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào:

- Khoản 1 Điều 28; điểm a khoản 1 Điều 35; khoản 4 Điều 147; khoản 1 Điều 227;  khoản 1 Điều 228; khoản 1 Điều 273; Điều 278 và khoản 1 Điều 280 Bộ luật Tố tụng Dân sự;

- Khoản 1 Điều 55, Điều 81, Điều 82, Điều 83 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014;

-   Khoản   1   Điều   6,   điểm   a   khoản   5   Điều   27   Nghị   quyết   số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòaán.

Xử vắng mặt anh Vũ Ngọc H, chị Nguyễn Phạm Thị Như H.

Tuyên xử:

[1] Về quan hệ hôn nhân: Công nhận sự thuận tình ly hôn giữa anh VũNgọc H và chị Nguyễn Phạm Thị Như H.

[2] Về quan hệ con chung: Chị Nguyễn Phạm Thị Như H được quyền tiếp tục nuôi dưỡng một con chung tên Nguyễn Như H, sinh ngày 10/12/2006.

Chị Nguyễn Phạm Thị Như H phải tạo điều kiện cho anh Vũ Ngọc Hthăm nom, chăm sóc, giáo dục con chung. Việc nuôi con không cố định.

Anh Vũ Ngọc H không phải cấp dưỡng nuôi con chung do chị NguyễnPhạm Thị Như H không yêu cầu.

[3] Về quan hệ tài sản chung và nợ chung: Anh Vũ Ngọc H và chị Nguyễn Phạm Thị Như H thống nhất không yêu cầu Tòa án giải quyết nên Hội đồng xét xử không xem xét, giải quyết.

[4] Về án phí sơ thẩm: Anh Vũ Ngọc H phải chịu số tiền 300.000đ (Batrăm nghìn đồng) án phí hôn nhân sơ thẩm, nhưng được khấu trừ vào số tiền300.000đ (Ba trăm nghìn đồng) tạm ứng án phí đã nộp theo biên lai thu số 0017994 ngày 21/8/2017 của Chi cục thi hành án dân sự Tp.Long Xuyên.

[5] Các đương sự có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày, kể nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành án theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 LuậtThi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

231
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 96/2017/HNGĐ-ST ngày 31/10/2017 về tranh chấp ly hôn

Số hiệu:96/2017/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Long Xuyên - An Giang
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 31/10/2017
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về