Bản án 96/2017/HNGĐ-ST ngày 21/09/2017 về tranh chấp ly hôn

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ ĐÀ LẠT-TỈNH LÂM ĐỒNG

BẢN ÁN 96/2017/HNGĐ-ST NGÀY 21/09/2017 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN

Ngày 21 tháng 9 năm 2017, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Đà Lạt, tỉnh Lâm Đồng xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 327/2017/TLST- HNGĐ ngày 19/6/2017 về việc Xin ly hôn theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số:74/2017/QĐST- HNGĐ ngày 16  tháng  8 năm 2017 giữa:

Nguyên đơn:  Bà Đặng Thị Mỹ D, sinh năm 1981.

Tạm trú tại: đường T, phường D, thành phố Đ, tỉnh Lâm Đồng.

Bị đơn: Ông Nguyễn Quang N, sinh năm 1975

Trú tại: đường H, phường E, thành phố Đ, tỉnh Lâm Đồng.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện, các tài liệu thể hiện tại hồ sơ  bà Đặng Thị Mỹ D trình bày: Bà và ông Nguyễn Quang N kết hôn vào năm 2007, có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã X, thành phố Đ. Hôn nhân do hai bên tự nguyện, có tổ chức lễ cưới theo phong tục tập quán. Sau khi kết hôn, vợ chồng thuê nhà làm ăn sinh sống tại  đường T, phường D, thành phố Đ. Cuộc sống vợ chồng chung sống hòa thuận, hạnh phúc đến năm 2011 thì phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân mâu thuẫn là do ông N nghiện rượu, thường xuyên say xỉn, đánh đập vợ con. Ông N có nhiều lần đe dọa, đánh đập bà. Năm 2011 bà đã làm đơn xin ly hôn, nhưng do gia đình và bạn bè khuyên nhủ nên bà đã rút đơn để vợ chồng về đoàn tụ nhưng ông N không thay đổi. Ông N đã dọn về nhà ba mẹ sống từ tháng 4/2017. Bà yêu cầu được ly hôn với ông N.

Về con chung: Có 01 con chung tên Nguyễn Quang Thiên L, sinh ngày 28/10/2007, hiện con đang ở với bà. Ly hôn bà cầu được nuôi con và không yêu cầu ông N cấp dưỡng nuôi con.

Về tài sản  chung:  Không có

Về nợ chung: Không có

Ông Nguyễn Quang N được tòa án triệu tập hợp lệ nhưng  không đến tòa án trình bày ý kiến.

Tại phiên tòa, bà Đặng Thị Mỹ D vẫn giữ nguyên yêu cầu xin ly hôn, yêu cầu được nuôi con và không yêu cầu ông Nguyễn Quang N cấp dưỡng nuôi con.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Đà Lạt tham gia phiên tòa phát biểu ý kiến về việc tuân theo pháp luật tố tụng của Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa và của những người tham gia tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án kể từ khi thụ lý cho đến trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị án. Về nội dung đề nghị Hội đồng xét xử bị chấp nhận yêu cầu xin ly hôn của bà Đặng Thị Mỹ D, cho bà Đặng Thị Mỹ D và ông Nguyễn Quang N được ly hôn.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa, ý kiến của đại diện Viên kiểm sát. Hội đồng xét xử nhận định;

[1] Về tố tụng : Trong quá trình thụ lý, giải quyết vụ án mặc dù đã được tống đạt hợp lệ nhưng ông Nguyễn Quang N vắng mặt vì vậy Hội đồng xét xử xử vắng mặt ông Nguyễn Quang N theo quy định tại điểm b khoản 1 Điều227 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015. Về quan hệ tranh chấp bà Đặng Thị Mỹ D có đơn yêu cầu xin ly hôn với ông Nguyễn Quang N, ông N sinh sống tại : phường E, thành phố Đ, nên quan hệ tranh chấp giữa hai bên là  ‘‘Xin ly hôn’’.

Căn cứ vào khoản 1 điều 28, điểm a, khỏa 1 Điều 35, điều 39 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015, vụ án thuộc thẩm quyền của Tòa án nhân dân thành phố Đà Lạt tỉnh Lâm Đồng.

[2] Về nội dung: Xét mối quan hệ hôn nhân giữa ông Nguyễn Quang N và bà bà Đặng Thị Mỹ D là hợp pháp. Cuộc sống vợ chồng theo bà D sống hòa thuận, hạnh phúc đến năm 2011 thì phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân mâu thuẫn là do ông N nghiện rượu, thường xuyên say xỉn, đánh đập vợ con. Bà D xin ly hôn, Hội đồng xét xử động viên bà D vì con trở lại hằn gắn tìnhcảm với ông N nhưng bà không đồng ý vì không còn tình cảm với ông N, năm 2011 bà đã làm đơn xin ly hôn, nhưng do gia đình và bạn bè khuyên nhủ nên bà đã rút đơn để vợ chồng về đoàn tụ nhưng ông N không thay đổi. Ông Nguyễn Quang N tòa án triệu tập đến tòa để hòa giải và tham gia phiên tòa nhưng không có mặt là thể hiện thái độ không còn tha thiết hàn gắn tình cảm vợ chồng. Qua các tài liệu thể hiện tại hồ sơ được biết mâu thuẫn giữa vợ chồng là có thật, hiện tại vợ chồng không còn sống chung với nhau. Với thực trạng của quan hệ hôn nhân thể hiện mâu thuẫn vợ chồng đã trầm trọng, tình cảm vợ chồng đối với nhau không còn, có kéo dài thì mục đích của hôn nhân cũng không đạt được mà còn ảnh hưởng đến con cái và trật tự trị an tại đia phương. Như vậy yêu cầu xin ly hôn của bà Đặng Thị Mỹ D là có căn cứ, áp dụng  Điều 51, 56 luật hôn nhân gia đình năm 2014 chấp nhận yêu cầu xin ly hôn của bà Đặng Thị Mỹ D cho ly hôn giữa ông Nguyễn Quang N và bà Đặng Thị Mỹ D.

Về con chung: Có 01 con chung tên Nguyễn Quang Thiên L, sinh ngày28/10/2007. Theo qui định của pháp luật con từ đủ 7 tuổi trở lên thì xem xét nguyện vọng của con, Tòa án lấy lời khai của cháu L, cháu có nguyện vọng ở với bà D vì vậy chấp nhận yêu cầu được nuôi con của bà D, giao con chung tên Nguyễn Quang Thiên Lâm cho bà Đặng Thị Mỹ D trực tiếp nuôi dưỡng cho đến khi thành niên.

Về đóng góp nuôi con chung bà Đặng Thị Mỹ D không yêu cầu ôngNguyễn Quang N đóng góp nuôi con nên không đề cập.

Về tài sản chung và nợ chung: Bà Đặng Thị Mỹ D xác đinh không có nên không đề cập.

[3] Về án phí: Bà Đặng Thị Mỹ D phải chịu án phí xin ly hôn theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên.

QUYẾT ĐỊNH

- Căn cứ các Điều 28, 35, 39, 147, 227, 228 của Bộ luật Tố tụng dân sự 2015;

- Căn cứ các Điều 51, 56, 81, 82, 83, 84 của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014;

- Căn cứ Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án;

Xử:

1- Chấp nhận yêu cầu xin ly hôn của bà Đặng Thị Mỹ D  xin ly hôn ôngNguyễn Quang N.

Cho ly hôn giữa bà Đặng Thị Mỹ D và ông Nguyễn Quang N. Thời điểm chấm dứt quan hệ hôn nhân kể từ ngày bản án cho ly hôn có hiệu lực pháp luật.

2- Về con chung:

Giao con chung tên Nguyễn Quang Thiên L, sinh ngày 28/10/2007 chobà Đặng Thị Mỹ D trực tiếp nuôi dưỡng cho đến khi thành niên.

Quyền thăm nom con, thay đổi người trực tiếp nuôi con và thay đổi cấp dưỡng nuôi con được thực hiện theo quy định của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014.

3- Về án phí: Bà Đặng Thị Mỹ D phải chịu 300.000đ án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm (Được trừ vào số tiền 300.000đ bà D đã tạm nộp theo biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí tòa án số AA/2015/0001421 ngày 15 tháng 6 năm 2017 của Chi cục Thi hành án Dân sự thành phố Đà Lạt).

Bà Đặng Thị Mỹ D có quyền làm đơn kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án, ông Nguyễn Quang N có quyền làm đơn kháng cáo trong thời hạn 15 ngày tính từ ngày nhận được bản án hoặc được tống đạt hợp lệ.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

276
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 96/2017/HNGĐ-ST ngày 21/09/2017 về tranh chấp ly hôn

Số hiệu:96/2017/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Đà Lạt - Lâm Đồng
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 21/09/2017
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về