Bản án 953/2020/HS-PT ngày 09/12/2020 về tội trộm cắp tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ HÀ NỘI

BẢN ÁN 953/2020/HS-PT NGÀY 09/12/2020 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 30 tháng 11 năm 2020 tại Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội xét xử phúc thẩm công khai vụ án hình sự phúc thẩm thụ lý số: 714/2020/TLPT-HS ngày 01 tháng 10 năm 2020 đối với bị cáo Nguyễn Thị K do có kháng cáo của Nguyễn Thị K đối với Bản án hình sự sơ thẩm số: 116/2020/HS-ST ngày 26/09/2020 của Tòa án nhân dân huyện Hoài Đức, thành phố Hà Nội.

1. Bị cáo có kháng cáo: Nguyễn Thị K, sinh năm 1973, tại Hà Nội. Nơi cư trú: ....., quận Cầu Giấy, thành phố Hà Nội; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Trình độ văn hoá: 12/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nữ; tôn giáo: không; quốc tịch: Việt Nam; Con ông: Nguyễn Văn H, sinh năm 1947 và con bà: Nguyễn Thị B, sinh năm 1952; Có chồng: Mạnh Minh Đ, sinh năm 1962 và có 02 con, Tiền án: Ngày 16/8/2017 bị Toà án quận Thanh Xuân, thành phố Hà Nội xử phạt 12 tháng tù về tội Trộm cắp tài sản, theo khoản 1 Điều 138 Bộ luật hình sự năm 2009.

Ngày 30/08/2019 bị Toà án nhân dân quận Cầu Giấy, thành phố Hà Nội xét xử 12 tháng tù về tội Trộm cắp tài sản theo khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự năm 2015.

Tiền sự: Không;

Nhân thân: Ngày 30/11/2001, Công an phường Trung Tự, quận Đống Đa, thành phố Hà Nội xử phạt hành chính về hành vi trộm cắp tài sản.

Ngày 13/4/2005, Công an quận Ba Đình, thành phố Hà Nội xử phạt hành chính về hành vi trộm cắp tài sản.

Bản án số 122/HSST, ngày 15/4/2011, Toà án nhân dân quận Đống Đa, thành phố Hà Nội xử phạt 36 tháng tù nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách 49 tháng về tội trộm cắp tài sản theo điểm e khoản 2 Điều 138 Bộ luật hình sự năm 2009.

Ngày 16/8/2012, Toà án nhân dân quận Cầu Giấy xử phạt 12 tháng tù về tội trộm cắp tài sản theo khoản 1 Điều 138 Bộ luật hình sự năm 2009. Tồng hợp hình phạt bản án số 122 ngày 15/4/2011 của Tòa án nhân dân quận Đống Đa buộc phải chấp hành 48 tháng tù ( đã chấp hành án xong) Bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 18/6/2020. Hiện bị cáo đang bị tạm giam tại trại tạm giam số I – Công an thành phố Hà Nội (Có mặt tại phiên tòa).

2. Bị cáo không có kháng cáo Nguyễn Thị H, sinh năm 1978, tại Hà Nội. Nơi cư trú: ....., quận Thanh Xuân, thành phố Hà Nội; (Vắng mặt tại phiên tòa).

3. Bị hại không có kháng cáo:

- Chị Đoàn Thị Mai L, sinh năm 1983; Trú tại: ...., huyện Đan Phượng, thành phố Hà Nội.

- Chị Phùng Thị Kim Q, sinh năm 1983; Trú tại: ...., huyện Đan Phượng, thành phố Hà Nội.

- Chị Nguyễn Thị Thanh H, sinh năm 1973;

Trú tại: ......, huyện Hoài Đức, thành phố Hà Nội. ( Các bị hại vắng mặt Tòa án không triệu tập).

4.Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan không có kháng cáo: Anh Mạnh Minh Đ, sinh năm 1962;Trú tại: ...., quận Cầu Giấy, thành phố Hà Nội (Vắng mặt Tòa án không triệu tập).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Do không có việc làm, cần tiền tiêu sài cá nhân, Nguyễn Thị H và Nguyễn Thị K cùng rủ nhau đi trộm cắp tài sản bằng hình thức móc trong các cốp xe mô tô để lấy trộm tài sản của người khác. Sau khi bàn bạc thống nhất, khoảng 15 giờ ngày 16/06/2020, H điều khiển xe mô tô nhãn hiệu Honda Blade biển số: 29G1 - 605.13 đi từ nhà H đến đón K tại nhà K, rồi điều khiển xe đến khu vực ....., huyện Hoài Đức, thành phố Hà Nội thì phát hiện bên trong sân trường có nhiều xe mô tô không ai trông giữ. H và K để xe mô tô biển số: 29G1 - 605.13 ở ngoài cổng trường rồi cùng đi bộ vào bên trong sân trường, Tại đây, H và K đã lấy trộm tài sản cụ thể như sau:

Khi quan sát thấy xe mô tô biển số: 17B4 - 171.84 của chị Đoàn Thị Mai L dựng ở ngoài sân trường, lợi dụng lúc chị L đi vào lớp đón con thì H và K liền đi đến gần chiếc xe trên, H đứng phía trước để che chắn và cảnh giới còn K dùng chiếc áo chống nắng đang cầm trên tay dải lên trên yên xe mô tô biển số: 17B4 - 171.84 của chị L rồi luồn tay qua khe yên xe vào trong cốp xe lấy trộm 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Samsung Galaxy J7 Prime nắp số thuê bao 861.807.876.0164, 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu OPPO Reno2 nắp 02 số thuê bao 093.624.0557 và 098.434.2370; 01 chiếc ví da màu vàng bên trong có: 400.000 đồng (Bốn trăm nghìn đồng) cùng một số giấy tờ như: 01 (một) Giấy phép lái xe mô tô, 01 (một) thẻ ngân hàng ViettinBank, 01 (một) thẻ ngân hàng Vietcombank, 01 (một) thẻ VinID, 01 (một) thẻ tài khoản khách hàng cá nhân, 01 (một) bảo hiểm xe máy đều mang tên Đoàn Thị Mai L, 01 (một) thẻ khách hàng sử dụng điện mang tên Duong Thi Son;

01(một) thẻ xe tháng; 01 (một) thẻ thang máy toà nhà CT2Acủa chị Đoàn Thị Mai L, sau khi lấy được số tài sản trên của chị L, K giấu vào trong chiếc túi xách Anh đang đeo.

Cũng bằng thủ đoạn tương tự, H và K tiếp tục trộm cắp tài sản trong cốp xe mô tô biển số: 29B1 - 185.26 của chị Phùng Thị Kim gồm 01 chiếc ví da màu nâu bên trong có 832.000 đồng (Tám trăm ba mươi hai nghìn đồng) cùng giấy tờ như: 01 (một) thẻ bảo hiểm y tế mang tên Nguyễn Thị Chúc; 01 (một) giấy chứng nhận đăng ký xe máy số 015230, biển số đăng ký 29B1-185.26; 01 (một) bảo hiểm bắt buộc; 01 (một) Giấy chứng minh nhân dân số 017488417; 01 (một) giấy phép lái xe số 011145033859; 01 (một) chứng minh quân nhân chuyên nghiệp số 548310250781 đều mang tên Phùng Thị Kim Q và 01 (một) thẻ bảo hiểm y tế mang tên Nguyễn Tuấn Hiệp.

H và K tiếp tục trộm cắp tài sản trong cốp xe mô tô biển số: 29X5 - 235.68 của chị Nguyễn Thị Thanh H gồm 01 chiếc ví da màu nâu dài 20 cm, rộng 08cm, dày 02cm, có khóa kéo, trên bề mặt ví có ghi chữ “Levis”bên trong có 1.500.000 đồng (Một triệu năm trăm nghìn đồng) cùng một số giấy tờ như: 01 thẻ căn cước công dân, 01 giấy phép lái xe mô tô, 01 đăng ký xe mô tô, 01 thẻ ATM mang tên chị Huyền.

Sau khi thực hiện xong hành vi lấy trộm tài sản trong cốp 03 chiếc xe trên, H và K đi ra ngoài cổng trường kiểm tra, lấy được số tiền bên trong 03 chiếc ví vừa trộm cắp được là 2.732.000 đồng (Hai triệu bảy trăm ba mươi hai nghìn đồng), Nguyễn Thị K đưa cho Nguyễn Thị H 1.500.000 đồng (Một triệu năm trăm nghìn đồng) và giữ số tiền còn lại cùng 02 chiếc điện thoại di động lấy trộm được của chị L. Sau đó, H vứt chiếc ví da màu vàng của chị Đoàn Thị Mai L gần cổng Trường mầm non Hoa Sen rồi lấy xe mô tô biển số: 29G1 -605.13 chở K về, trên đường về K vứt bỏ 02 chiếc ví da màu nâu của chị Q và chị Huyền ngoài đường, trong quá trình di chuyển K làm rơi mất chiếc điện thoại di động nhãn hiệu OPPO Reno2 của chị L. Đến khoảng 21 giờ cùng ngày16/06/2020, K một mình mang chiếc điện thoại di động nhãn nhiệu Samsung Galaxy J7 Prime lấy được của chị L đến khu vực đường Trần Khát Chân thuộc phường Bạch Đằng, quận Hai Bà Trưng, thành phố Hà Nội bán cho một nam thanh niên không quen biết với giá 500.000 đồng (Năm trăm nghìn đồng). Tiếp đó khoảng 15 giờ ngày 17/06/2020, H điều khiển xe mô tô biển số: 29G1 - 605.13 đi từ nhà đến nhà K, tại đây K chia cho H số tiền 250.000 đồng (Hai trăm năm mươi nghìn đồng) từ việc bán điện thoại trộm cắp được, sau đó cả hai cùng rủ nhau đi đến Trường mầm non Hoa Sen để tiếp tục trộm cắp tài sản. Đến nơi, khi chưa lấy được tài sản thì cả hai bị lực lượng Công an thị trấn Trạm Trôi kiểm tra hành chính, đưa về trụ sở làm việc. Sau khi có căn cứ xác định hành vi phạm tội của Nguyễn Thị H và Nguyễn Thị K, ngày 18/6/2020 Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Hoài Đức ra Lệnh giữ người trong trường hợp khẩn cấp đối với Nguyễn Thị H và Nguyễn Thị K để phục vụ điều tra.

Cơ quan điều tra đã thu giữ toàn bộ vật chứng:

- Số tiền 4.310.000đ (Bốn triệu ba trăm mười nghìn đồng) (Thu giữ của H).

- 01 (một) chiếc điện thoại nhãn hiệu VIVO màu đỏ, bên trong có số thuê bao: 0825964405 (Thu giữ của H).

- 01 (một) xe mô tô nhãn hiệu Honda Blade màu đỏ đen mang BKS: 29G1 - 605.13 có số khung: RLHJA3607E9128934, số máy: JA36E - 0274281, đã qua sử dụng, trong cốp xe không có tài sản gì (Thu giữ của H).

- 01 (một) chiếc điện thoại Iphone 8 plus màu trắng có ốp lưng màu đỏ, IMEI: 352982098771523, bên trong lắp sim số thuê bao: 0915327585 (Thu giữ của K).

- 01 (một) áo chống nắng có hai mặt, một mặt màu xanh có hoa màu trắng, mặt còn lại màu trắng có hoa màu đỏ, chiều dài áo 152cm, rộng thân áo 55cm, đường khoá áo giữa dài 97cm, 02 đầu tay áo cách nhau 175cm, đã qua sử dụng (Thu giữ của K).

- 01 (một) áo chống nắng có hai mặt, một mặt màu xanh có hoa màu trắng, mặt còn lại màu trắng có hoa xanh đỏ, chiều dài áo 151cm, rộng thân áo 65cm, đường khoá áo giữa dài 109cm, hai đầu tay áo cách nhau 175cm. Trên mặt trước thân cách đường khoá giữa 4,5cm và cách vạt áo dưới 84cm có logo kích thước (5,5x2) cm bề mặt ghi chữ “gold lion”, đã qua sử dụng (Thu giữ của K).

- 01 (một) khẩu trang chiều dài 34cm, phần rộng nhất của khẩu trang đo được là 18,5cm, khẩu trang màu đỏ mặt ngoài có hoa màu trắng, mặt trong hai đầu có dây vải màu trắng hình tròn vải co dãn (Thu giữ của K).

- 01 (một) mũ bảo hiểm màu xanh dạng mũ lưỡi trai mặt ngoài phía trước của mũ có dòng chữ “NIKE” màu trắng, bên trong lòng mũ có lớp vải màu nâu đen, hai bên sườn mũ có dây đeo bằng vải (Thu giữ của K).

- 01 (một) túi xách giả da màu nâu, đường khoá kéo giữa dài 33cm, mặt ngoài có đường khoá kéo 17cm, túi xách có quai đeo ở hai bên miệng túi xách hình vòng cung dài 56,5cm (Thu giữ của K).

- 01 (một) chiếc ví giả da màu vàng có kích thước (14,5 x 9) cm, tại góc dưới bên phải của chiếc ví trên có dòng chữ “FOREVER YOUNG design from pely” màu đen, ví có khoá bấm và có khoá kéo ở ngang sườn bên phải của chiếc ví. Bên trong chiếc ví có: 01 (một) Giấy phép lái xe mô tô, 01 (một) thẻ ngân hàng ViettinBank, 01 (một) thẻ ngân hàng Vietcombank, 01 (một) thẻ VinID, 01 (một) thẻ tài khoản khách hàng cá nhân, 01 (một) bảo hiểm xe máy đều mang tên Đoàn Thị Mai L, 01 (một) thẻ khách hàng sử dụng điện mang tên Duong Thi Son; 01(một) thẻ xe tháng; 01 (một) thẻ thang máy toà nhà CT2A (Do anh Bùi Hữu Hà SN: 1965; Nơi cư trú: Khu 5, thị trấn Trạm Trôi, huyện Hoài Đức, TP Hà Nội nhặt được và giao nộp).

- 01 (một) chiếc ví giả da màu nâu dài 19,5 cm, rộng 10cm, một mặt được gắn chữ lồng “LV” màu vàng, ví được dập các hoạ tiết có khoá ở giữa ví, bên trong ví có sáu ngăn trong đó có một ngăn có khoá kéo (Do chị Phùng Thị Kim Q giao nộp), bên trong có:

+ 01 (một) thẻ bảo hiểm y tế mang tên Nguyễn Thị Chúc.

+ 01 (một) giấy chứng nhận đăng ký xe máy số 015230, biển số đăng ký 29B1 185.26, số máy: 0102838, số khung: XCY102783, loại xe Vision màu đỏ đen bạc.

+ 01 (một) bảo hiểm bắt buộc mang tên Phùng Thị Kim Q.

+ 01 (một) Giấy chứng minh nhân dân số 017488417 mang tên Phùng Thị Kim Q, nguyên quán: ...., huyện Phù Ninh, tỉnh Phú Thọ; Nơi ĐKHKTT: Xã Kim Chung, huyện Hoài Đức, TP Hà Nội.

+ 01 (một) giấy phép lái xe số 011145033859 mang tên Phùng Thị Kim Q hạng A1, B2.

+ 01 (một) chứng minh quân nhân chuyên nghiệp số 548310250781 mang tên Phùng Thị Kim Q.

+ 01 (một) thẻ bảo hiểm y tế mang tên Nguyễn Tuấn Hiệp.

Tại bản kết luận định giá tài sản số 97/KL-HĐĐGTS ngày 25/6/2020 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng huyện Hoài Đức kết luận:

- 01 (một) chiếc ví giả da màu vàng có kích thước (14,5 x 9) cm, tại góc dưới bên phải của chiếc ví trên có dòng chữ “FOREVER YOUNG design from pely”màu đen, ví có khoá bấm và có khoá kéo ở ngang sườn bên phải của chiếc ví, đã qua sử dụng từ tháng 5/2019. Có giá: 30.000 đồng - 01 (một) chiếc ví giả da màu nâu dài 19,5 cm rộng 10cm, một mặt được gắn chữ lồng LV màu vàng, ví được dập các hoạ tiết có khoá ở giữa ví, đã qua sử dụng từ năm 2019. Có giá: 60.000 đồng.

- 01 (một) chiếc ví giả da màu nâu, dài 20 cm, rộng 08cm, dày 02cm, có khóa kéo, trên bề mặt ví có ghi chữ “Levis”, đã qua sử dụng từ tháng 05/2018 (Định giá qua tài liệu). Có giá: 80.000 đồng.

- 01 (một) điện thoại nhãn hiệu Samsung Galaxy J7 Prime, màu hồng, đã qua sử dụng từ năm 2017 (Định giá qua tài liệu). Có giá: 1.366.000 đồng.

- 01 (một) điện thoại nhãn hiệu OPPO Reno2, màu xanh, đã qua sử dụng từ tháng 4/2020 (Định giá qua tài liệu). Có giá: 4.566.000 đồng.

Tổng giá trị tài sản cần định giá thời điểm ngày 16/6/2020 là: 6.102.000 đồng (Sáu triệu một trăm linh hai nghìn đồng).

Tại bản kết luận định giá tài sản số 111/KL-HĐĐGTS ngày 11/8/2020 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng huyện Hoài Đức kết luận:

- 01 (một) sim điện thoại di động có số thuê bao 0936240557, nhà mạng Mobiphone có giá: 50.000 đồng - 01 (một) sim điện thoại di động có số thuê bao 0984342370, nhà mạng Viettel, có giá 50.000 đồng.

- Từ chối định giá đối với 01 (một) sim điện thoại di động có số thuê bao 8615078760164, nhà mạng Trung Quốc do không có thông tin về giá trên thị trường.

Tổng giá trị các tài sản định giá thời điểm tháng 6/2020 là: 100.000 đồng (Một trăm nghìn đồng).

Đối với thanh niên mua chiếc điện thoại di động nhãn nhiệu Samsung Galaxy J7 Prime do K bán, Cơ quan điều tra tiến hành điều tra xác minh nhưng không làm rõ được nên không đủ căn cứ để xử lý.

Về trách nhiệm dân sự:

Gia đình bị cáo Nguyễn Thị K đã bồi thường cho chị L số tiền 15.000.000 đồng, chị L đã nhận số tiền trên và tài sản nên không yêu cầu, đề nghị gì thêm.

Chị Phùng Thị Kim Q và chị Nguyễn Thị Thanh H đã nhận lại tài sản không yêu cầu bồi thường gì thêm.

Quá trình điều tra vụ án và tại phiên tòa sơ thẩm các bị cáo Nguyễn Thị H và Nguyễn Thị K đã khai nhận rõ hành vi phạm tội của mình.

Bản án hình sự sơ thẩm số: 116/2020/HS-ST ngày 26 tháng 9 năm 2020 của Tòa án nhân dân huyện Hoài Đức, thành phố Hà Nội đã quyết định:

Căn cứ vào Điểm g Khoản 2 Điều 173; Điểm b, s Khoản 1 Điều 51; Điều 38 của Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017.

Xử phạt bị cáo Nguyễn Thị K 28 (Hai mươi tám) tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”.

Căn cứ vào Khoản 1 Điều 173; Điểm b, s Khoản 1Điều 51; Điểm h Khoản 1 Điều 52 Điều 38 của Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017.

Tuyên bố: bị cáo Nguyễn Thị H phạm tội “Trộm cắp tài sản”;

Xử phạt bị cáo Nguyễn Thị H 18 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”.

Ngoài ra bản án hình sự sơ thẩm còn quyết định về vật chứng, án phí và quyền kháng cáo.

Ngày 01/10/ 2020 bị cáo Nguyễn Thị K kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt. Tại phiên tòa phúc thẩm bị cáo giữ nguyên đề nghị kháng cáo.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Hà Nội sau khi đánh giá tính chất mức độ hậu quả hành vi phạm tội, nhân thân và các tình tiết tăng nặng giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị cáo, Hội đồng xét xử phúc thẩm căn cứ điểm a khoản 1 Điều 355, Điều 356 Bộ luật tố tụng hình sự, không chấp nhận kháng cáo giữ nguyên bản án sơ thẩm.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hình thức: Đơn kháng cáo của bị cáo, đúng về mặt chủ thể kháng cáo và trong thời hạn của luật định nên được chấp nhận để xem xét theo trình tự phúc thẩm.

[2] Về nội dung: Lời khai nhận tội của bị cáo tại cơ quan điều tra, phiên tòa sơ thẩm, phúc thẩm phù hợp với nhau, phù hợp với lời khai của bị hại, tang vật chứng đã thu giữ có trong hồ sơ vụ án. Do vậy có đủ cơ sở kết luận:

Do không có việc làm, cần tiền tiêu sài cá nhân, nên khoảng 15 giờ ngày 16/06/2020, tại sân Trường mầm non Hoa Sen thuộc khu 5, thị trấn Trạm Trôi, huyện Hoài Đức, thành phố Hà Nội, các bị cáo Nguyễn Thị H và Nguyễn Thị K cùng rủ nhau đi trộm cắp tài sản bằng hình thức móc trong các cốp xe Mô tô để trộm cắp tài sản của người khác, đã móc trong 03 cốp xe mô tô trộm cắp tài sản gồm:

Trộm cắp tài sản trong cốp xe mô tô biển số: 17B4 - 171.84 của chị Đoàn Thị Mai L lấy trộm: 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Samsung Galaxy J7 Prime, 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu OPPO Reno2; 01 chiếc ví da màu vàng, 400.000 đồng (Bốn trăm nghìn đồng) cùng một số giấy tờ của chị L. Tổng giá trị tài sản là 6.462.000 đồng (Sáu triệu bốn trăm sáu mươi hai nghìn đồng) Trộm cắp tài sản trong cốp xe mô tô biển số: 29B1 - 185.26 của chị Phùng Thị Kim Q lấy trộm: 01 chiếc ví da màu nâu, 832.000 đồng (Tám trăm ba mươi hai nghìn đồng) cùng giấy tờ của chị Q. Tổng giá trị tài sản là 892.000 đồng.

Trộm cắp tài sản trong cốp xe mô tô biển số: 29X5 - 235.68 của chị Nguyễn Thị Thanh H trộm cắp: 01 chiếc ví da màu nâu, 1.500.000 đồng, cùng một số giấy tờ chị Huyền. Tổng giá trị tài sản là 1.580.000 đồng.

Tổng giá trị tài sản mà Nguyễn Thị H và Nguyễn Thị K chiếm đoạt là 8.934.000 đồng (Tám triệu chín trăm ba tư nghìn đồng).

Bị cáo Nguyễn Thị K có 2 tiền án chưa được xóa tích lại tiếp tục phạm tội lên lần phạm tội này là “Tái phạm nguy hiểm” theo điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự là tình tiết định khung theo quy định tại điểm g Khoản 2 Điều 173 Bộ luật hình sự.

nh vi trên của Nguyễn Thị K đã bị Tòa án cấp sơ thẩm xét xử về tội Trộm cắp tài sản ” theo điểm g Khoản 2 Điều 173 Bộ luật Hình sự năm 2015, bị cáo Nguyễn Thị H bị xét xử theo khoản 1 Điều 173 BLHS là hoàn toàn có căn cứ đúng quy định của pháp luật.

[3] Xét kháng cáo của bị cáo Hội đồng xét xử nhận thấy:

Hành vi của các bị cáo là cố ý lén lút chiếm đoạt tài sản của người khác, xâm phạm đến quyền sở hữu về tài sản của người khác được pháp luật bảo vệ, gây ảnh hưởng xấu đến trật tự trị an xã hội tại địa pH.

Tòa án cấp sơ thẩm đã đánh giá đúng tính chất, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo, các tình tiết tăng nặng , giảm nhẹ trách nhiệm hình sự tại cấp sơ thẩm như bị cáo khai báo thành khẩn, ăn năn hối cải, đã bồi thường thiệt hại cho bị hại xong nên bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ quy định tại Điểm b, s Khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015;

Tại phiên tòa phúc thẩm bị cáo không có tình tiết mới, tuy nhiên xét bị cáo có nhiều tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, tài sản bị cáo chiếm đoạt không lớn vì vậy áp dụng khoản 1 Điều 54 Bộ luật hình sự cho bị cáo hưởng mức án dưới khung hình phạt, vì vậy Hội đồng xét xử phúc thẩm căn cứ điểm b khoản 1 Điều 355, điểm c khoản 1 Điều 357 Bộ luật Tố tụng hình sự, chấp nhận kháng cáo của bị cáo Nguyễn Thị K, sửa Bản án hình sự sơ thẩm số: 116/2020/HS-ST ngày 26 tháng 9 năm 2020 của Tòa án nhân dân huyện Hoài Đức, TP. Hà Nội giảm hình phạt cho bị cáo.

[4] Về án phí hình sự phúc thẩm: Kháng cáo của bị cáo được chấp nhận nên bị cáo không phải chịu án phí hình sự phúc thẩm.

[5] Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết hạn kháng cáo kháng nghị.

Vì các lẽ trên:

QUYẾT ĐỊNH

1.Căn cứ: Điểm b khoản 1 Điều 355, điểm c khoản 1 Điều 357 Bộ luật Tố tụng hình sự.

Chấp nhận kháng cáo của bị cáo Nguyễn Thị K;

Sửa Bản án hình sự sơ thẩm số 116/2020/HS-ST ngày 26 tháng 9 năm 2020 của Tòa án nhân dân huyện Hoài Đức, Thành phố Hà Nội về áp dụng điều luật và hình phạt.

n cứ: Áp dụng Điểm g Khoản 2 Điều 173, Điểm b, s Khoản 1 Điều 51, khoản 1 Điều 54 Bộ luật Hình sự năm 2015.

Xử phạt: Nguyễn Thị K 20 (Hai mươi) tháng tù về tội “ Trộm cắp tài sản”. Thời hạn tù tính từ ngày 18/6/2020.

2. Án phí hình sự phúc thẩm: Căn cứ khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự và điểm a khoản 2 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 về án phí, lệ phí Tòa án: Bị cáo không phải chịu án phí hình sự phúc thẩm.

Các quyết định khác của Bản án hình sự sơ thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

218
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 953/2020/HS-PT ngày 09/12/2020 về tội trộm cắp tài sản

Số hiệu:953/2020/HS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Hà Nội
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành:09/12/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về