Bản án 95/2021/HNGĐ-ST ngày 22/04/2021 về ly hôn

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN ĐỨC HÒA, TỈNH LONG AN

 BẢN ÁN 95/2021/HNGĐ-ST NGÀY 22/04/2021 VỀ LY HÔN

Ngày 22 tháng 4 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Đức Hòa (toạ lạc tại Khu B, thị trấn Hậu Nghĩa) tiến hành xét xử công khai vụ án hôn nhân gia đình thụ lý số 169/2021/TLST-HNGĐ ngày 24/02/2021 về việc “ly hôn” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 84/QĐXXST-HNGĐ ngày 07/4/2021 giữa các đương sự:

Nguyên đơn: Chị Phan Thị C T, sinh năm 1989. Địa chỉ: Ấp T, xã H, huyện Đ, tỉnh L (có mặt).

 Bị đơn: Anh Nguyễn Minh C, sinh năm 1987.

Địa chỉ: Ô Z, khu A, thị trấn H, huyện Đ, tỉnh L (có mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn xin ly hôn ngày 24/02/2021 và những lời khai tiếp theo trong quá trình giải quyết vụ án cũng như tại phiên tòa chị Phan Thị C T trình bày: Chị và anh Nguyễn Minh C sống với nhau năm 2012, có đăng ký kết hôn tại UBND thị trấn Hậu Nghĩa, huyện Đức Hòa, tỉnh Long An. Thời gian đầu chung sống, vợ chồng hạnh phúc. Sau đó, bắt đầu phát sinh mâu thuẫn do bất đồng quan điểm, thường xuyên cãi vã. Anh C không lo làm ăn, thường xuyên uống rượu, đánh đập chị, chị đã khuyên can nhiều lần nhưng anh C vẫn không thay đổi. Năm 2020 chị đã nộp đơn ly hôn anh C nhưng sau đó anh C hứa sửa đổi tính tình nên chị rút đơn để cho anh C thêm cơ hội, sửa đổi để chung sống lo cho con. Sau khi chị rút đơn, anh C vẫn không thay đổi tính tình, mâu thuẫn vợ, chồng ngày càng trầm trọng nên sống ly thân từ tháng 01 năm 2021 cho đến nay. Nay thấy tình cảm vợ chồng không thể nào hàn gắn lại được nên chị yêu cầu được ly hôn anh C.

Về con chung: Nguyễn H, sinh ngày 02/02/2014 hiện đang sống với chị, sau khi ly hôn chị xin tiếp tục nuôi con, không yêu cầu anh C cấp dưỡng nuôi con. Hiện tại chị làm công việc kinh doanh, có thu nhập ổn định mỗi tháng khoảng 30.000.000đ nên chị có đủ điều kiện để nuôi con.

Tài sản chung: Chị T tự thỏa thuận với anh C, không yêu cầu giải quyết Nợ chung: Không có.

Bị đơn anh Nguyễn Minh C trình bày trong quá trình giải quyết vụ án cũng như tại phiên tòa như sau: Anh trình bày về thời gian chung sống, điều kiện kết hôn, nguyên nhân mâu thuẫn, thời gian sống ly thân, về con chung, tài sản chung, nợ chung như chị T đã trình bày. Vợ chồng chung sống tuy có phát sinh mâu thuẫn nhưng không trầm trọng. Chủ yếu mâu thuẫn là do chị T làm công việc kinh doanh bán thức ăn khuya nên thường mỗi ngày đến hai giờ sáng chị T mới nghỉ. Anh thì làm thợ sửa xe, ban ngày anh phải đi làm nên vợ chồng không có thời gian ở bên nhau, anh đã nhiều lần khuyên chị T bớt công việc lại, để dành thời gian chăm lo cho gia đình nhưng chị T không đồng ý. Từ đó, phát sinh mâu thuẫn, anh có giận và có đánh chị T. Hiện tại anh vẫn còn thương vợ nên chị T xin ly hôn anh không đồng ý.

Về con chung: Nguyễn H, sinh ngày 02/02/2014, con hiện đang sống với chị T, nếu Tòa xử cho ly hôn thì anh xin nuôi con, không yêu cầu chị T cấp dưỡng nuôi con. Công việc của anh là thợ sửa xe, thu nhập mỗi tháng khoản 10.000.000đ nên anh đủ điều kiện nuôi con.

Tài sản chung: Anh C tự thỏa thuận với chị T, không yêu cầu giải quyết.

Nợ chung: Không có.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên Toà, căn cứ các kết quả hỏi tại phiên Toà, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về tố tụng: Chị Phan Thị C T khởi kiện yêu cầu được ly hôn với anh Nguyễn Minh C, anh C hiện có hộ khẩu thường trú tại thị trấn Hậu Nghĩa, huyện Đức Hòa nên Tòa án nhân dân huyện Đức Hòa thụ lý là đúng thẩm quyền theo quy định tại khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35 và điểm a khoản 1 Điều 39 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015.

[2] Về quan hệ hôn nhân: Chị Phan Thị C T và anh Nguyễn Minh C chung sống với nhau vào năm 2012 có đăng ký kết hôn, nên hôn nhân giữa chị T và anh C được xem là hôn nhân hợp pháp theo quy định tại Điều 9 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014. Trong quá trình chung sống, chị T và anh C phát sinh mâu thuẫn do bất đồng quan điểm. Nay thấy tình cảm vợ chồng không còn nên chị T xin ly hôn anh C. Ngược lại, anh C không đồng ý ly hôn.

[3] Xét thấy chị T và anh C từ khi sống ly thân cho đến nay, chị T và anh C không tự giải quyết được mâu thuẫn để vợ, chồng đoàn tụ nên chị T cương quyết xin ly hôn. Anh C mặc dù không đồng ý ly hôn nhưng không đưa ra được biện pháp nào để khắc phục mâu thuẫn. Chị T đã từng nộp đơn ly hôn và rút đơn lại để vợ chồng hàn gắn nhưng vẫn không hàn gắn lại được. Do đó, xét thấy hôn nhân giữa chị T và anh C đã mâu thuẫn trầm trọng, mục đích của hôn nhân không đạt được, đời sống vợ chồng không có hạnh phúc, chị T xin ly hôn với anh C là phù hợp với Điều 56 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014 nên Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu xin ly hôn của chị T đối với anh C.

Con chung: Nguyễn H, sinh ngày 02/02/2014. Sau khi ly hôn chị T và anh C đều xin được quyền nuôi con. Xét thấy, cháu Hoàng hiện sống ổn định với chị T, chị T có thu nhập ổn định, đủ điều kiện nuôi con. Về thu nhập của anh C cũng đủ điều kiện để nuôi con. Tuy nhiên, cháu Hoàng đã trên bảy tuổi, cháu có nguyện vọng sống với chị T nên Hội đồng xét xử thấy cần thiết giao cháu Hoàng cho chị T nuôi là phù hợp. Anh C không phải cấp dưỡng nuôi con vì chị T không có yêu cầu.

Tài sản chung: Chị T và anh C tự thỏa thuận, không yêu cầu Tòa án giải quyết nên không xem xét.

Nợ chung: Chị T và anh C khai không có, không yêu cầu giải quyết nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[4] Chị T phải chịu án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm theo Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 Quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39, khoản 4 Điều 147 của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015; Điều 9, Điều 56, Điều 81, 82, 83, 84 của Luật hôn nhân và gia đình năm 2014; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Tuyên xử:

1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của chị Phan Thị C T đối với anh Nguyễn Minh C về việc “ly hôn”.

Về quan hệ hôn nhân: Chị Phan Thị C T được ly hôn với anh Nguyễn Minh C.

Việc nuôi con: Chị Phan Thị C T được quyền tiếp tục nuôi Nguyễn H, sinh ngày 02/02/2014, anh C không phải cấp dưỡng nuôi con vì chị T không có yêu cầu. Cả hai bên đều có quyền và nghĩa vụ đối với con chung. Bên không trực tiếp nuôi con có quyền thăm nom, chăm sóc, bên trực tiếp nuôi con không được quyền ngăn cản. Khi cần thiết có thể yêu cầu thay đổi quyền nuôi con và mức cấp dưỡng nuôi con.

Về tài sản chung: Chị T và anh C tự thỏa thuận. Về nợ chung: Không có.

2. Về án phí: Chị Phan Thị C T chịu 300.000 đồng án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm sung công quỹ nhà nước, chị T được khấu trừ 300.000 đồng tạm ứng án phí đã nộp tại biên lai thu số 0007531 ngày 24/02/2021 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Đức Hoà, tỉnh Long An để thi hành.

Nguyên đơn, bị đơn có mặt được quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án để xin xét xử phúc thẩm.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

272
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

 Bản án 95/2021/HNGĐ-ST ngày 22/04/2021 về ly hôn

Số hiệu:95/2021/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Đức Hòa - Long An
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành:22/04/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về