Bản án 95/2020/HSST ngày 26/10/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TOÀ ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ LÀO CAI, TỈNH LÀO CAI

BẢN ÁN 95/2020/HSST NGÀY 26/10/2020 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 26 tháng 10 năm 2020, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Lào Cai, tỉnh Lào Cai xét xử công khai sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số 96/2020/HSST ngày 02/10/2020 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 94/2020/QĐXXST- HS ngày 14 tháng 10 năm 2020, đối với bị cáo:

Họ và tên: Nguyễn Đức A - tên gọi khác: không; giới tính: Nam Sinh ngày 13/8/1992 tại thành phố Lào Cai, tỉnh Lào Cai Nơi cư trú: Tổ 10, phường P, thành phố L, tỉnh Lào Cai Nghề nghiệp: Công nhân; trình độ văn hóa: 12/12; dân tộc: Kinh; tôn giáo: không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn Văn P, sinh 1963, trú tại: tổ 10, phường P, thành phố L, tỉnh Lào Cai và bà Nguyễn Thị Thu H, sinh năm 1971, trú tại: tổ 7, phường P, thành phố L, tỉnh Lào Cai; vợ là Nguyễn Phương T, sinh năm 1991, con Nguyễn Bảo L, sinh năm 2019, cùng trú tại: tổ 07, phường P, thành phố L, tỉnh Lào Cai; tiền án: không; tiền sự: không.

Bị cáo bị bắt tạm giữ từ ngày 06/8/2020, tạm giam từ ngày 15/8/2020. Đến ngày 11/9/2020 bị cáo được thay thế biện pháp ngăn chặn bằng biện pháp Bảo lĩnh - có mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 02 giờ 05 phút ngày 06/8/2020, tổ công tác Đội Cảnh sát Điều tra ma túy Công an thành phố Lào Cai tiến hành kiểm tra phòng 420, khách sạn Ngôi Sao thuộc tổ 23, phường Cốc Lếu, thành phố Lào Cai, tỉnh Lào Cai, phát hiện trong phòng có Nguyễn Đức A, Ngô Hồng T, Triệu T, Lý Thị T. Quá trình kiểm tra phát hiện trên kệ gỗ có: 01 (một) túi nilon màu trắng chứa 02(hai) mảnh viên nén màu xanh, bị cáo Nguyễn Đức A khai nhận là ma túy Kẹo; 01(một) vỏ bao thuốc lá nhãn hiệu “555” bên trong có 01 (một) túi nilon màu trắng chứa các hạt tinh thể rắn, màu trắng là ma túy Ke; 01(một) hộp nhựa chứa chất thực vật khô, màu xám là ma túy Cần Sa; 01(một) túi vải màu đen, bên trong có 01(một) vỏ bao thuốc lá nhãn hiệu “CAMEL” bên trong có 01 (một) túi nilon màu trắng bên trong có 05 (năm) viên nén màu hồng, trên mỗi mặt viên nén được dập chìm chữa “WY”; 01(một) túi nilon màu trắng chứa các mảnh viên nén màu hồng bị cáo Nguyễn Đức A khai không biết là của ai. Còn số ma túy bị cáo Nguyễn Đức A khai nhận ở trên, tàng trữ với mục đích để sử dụng. Quá trình kiểm tra bị cáo Nguyễn Đức A, Triệu Thi, Lý Thị Toán khai nhận vừa cùng nhau sử dụng trái phép chất ma túy, còn Ngô Hồng Thắng không sử dụng. Tổ công tác đã lập biên bản bắt người phạm tội quả tang, thu giữ, niêm phong vật chứng. Ngoài ra, còn tạm giữ: 01(một) chén sứ; tạm giữ của Nguyễn Đức A 01(một) túi vải màu đen có khóa; 01(một) loa màu đen; 01(một) điện thoại di động nhãn hiệu IPHONE X, màu trắng; 01(một) điện thoại di động nhãn hiệu IPHONE SE, màu xám; 4.200.000 đồng (bốn triệu hai trăm nghìn đồng):

01(một) xe ô tô nhãn hiệu CHEVROLET-COROLADO màu trắng, biển kiểm soát 24C -098.01. Tạm giữ của Ngô Hồng T 01(một) điện thoại di động nhãn hiệu IPHONE 11 pro, màu đen; 6.500.000 đ (sáu triệu năm trăm nghìn đồng); 01 (một) chiếc xe ô tô nhãn hiệu FORD-RANGER, màu trắng, biển kiểm soát 29H- 300.75.Tạm giữ của Lý Thị T 01(một) điện thoại di động nhãn hiệu SAMSUNG, màu đen; 1.200.000đ (một triệu hai trăm nghìn đồng). Tạm giữ của Triệu T 01(một) điện thoại di động nhãn hiệu IPHONE 11, màu trắng; 6.000.000đ (sáu triệu đồng).

Biên bản mở niêm phong, xác định khối lượng, trích mẫu, tái niêm phong và giao nhận đối tượng giám định hồi 09 giờ 05 phút ngày 10 tháng 8 năm 2020 giữa Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Lào Cai, Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Lào Cai, có sự tham gia của Kiểm sát viên và bị cáo Nguyễn Đức A. Niêm phong còn nguyên vẹn, đúng quy định. Xác định:

Mẫu M1: 01(một) túi nilon màu trắng bên trong chứa các mảnh viên nén màu xanh không định hình có tổng khối lượng là 0,34 (không phẩy ba mươi tư) gam. Cơ quan giám định tiến hành đồng nhất mẫu, sau đó trích mẫu 0,08 (không phẩy không tám) gam để tiến hành giám định. Còn lại 0,26 (không phẩy hai mươi sáu) gam tái niêm phong, hoàn trả lại cơ quan trưng cầu.

Mẫu M2: 01 (một) túi nilon màu trắng chứa các hạt tinh thể rắn, màu trắng, tổng khối lượng là 0,5 (không phẩy năm) gam. Cơ quan giám định tiến hành đồng nhất mẫu sau đó trích mẫu 0,1 (không phẩy một) gam để tiến hành giám định. Còn lại là 0,4 (không phẩy bốn) gam tái niêm phong, hoàn trả lại cơ quan trưng cầu.

Mẫu M3: 01 (một) hộp nhựa màu trắng bên trong có các mảnh thực vật khô, màu xám có tổng khối lượng 0,26 (không phẩy hai mươi sáu) gam. Cơ quan giám định giữ lại toàn bộ 0,26(không phẩy hai mươi sáu) gam để tiến hành giám định.

Mẫu M4: 01(một) túi nilon màu trắng bên trong chứa 05 (năm) viên nén màu hồng, trên mỗi mặt viên nén được dập chìm chữa “WY” có tổng khối lượng là 0,5 (không phẩy năm) gam. Cơ quan giám định tiến hành đồng nhất mẫu sau đó trích mẫu 0,2 (không phẩy hai) gam để tiến hành giám định. Còn lại 0,3 (không phẩy ba) gam tái niêm phong, hoàn trả lại cơ quan trưng cầu.

Mẫu M5: 01 (một) túi nilon màu trắng bên trong chứa các mảnh viên nén màu hồng có tổng khối lượng là 0,11 (không phẩy mười một) gam. Cơ quan giám định tiến hành đồng nhất mẫu sau đó trích mẫu toàn bộ 0,11 (không phẩy mười một) gam để tiến hành giám định.

Tại Kết luận giám định số 170/GĐMT ngày 12/8/2020 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Lào Cai, kết luận:

Mẫu M1: 0,34 (không phẩy ba mươi tư) gam các mảnh viên nén màu xanh không định hình là chất ma túy MDMA.

Mẫu M2: 0,5 (không phẩy năm) gam các hạt tinh thể rắn, màu trắng là chất ma túy Ketamine.

Mẫu M3: 0,26 (không phẩy hai mươi sáu) gam các mảnh thực vật khô, màu xám là ma túy Cần sa.

Mẫu M4: 0,5 (không phẩy năm) gam các viên nén hình tròn màu hồng trên mỗi mặt viên nén được dập chìm chữ “WY” là chất ma túy Methamphetamine.

Mẫu M5: 0,11 (không phẩy mười một) gam các mảnh viên nén màu hồng là chất ma túy Methamphetamine.Tổng khối lượng của các chất ma túy là 1,71 (một phẩy bảy mốt) gam.

Cáo trạng số 93/CT- VKSTPLC ngày 01/10/2020 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Lào Cai truy tố bị cáo Nguyễn Đức A về tội "Tàng trữ trái phép chất ma tuý” theo điểm i Khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự.

Tại phiên toà: Bị cáo Nguyễn Đức A khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình và xin HĐXX xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Lào Cai giữ quyền công tố luận tội: Bị cáo Nguyễn Đức A có hành vi tàng trữ trái phép 0,34 (không phẩy ba mươi tư) gam MDMA, 0,5 (không phẩy năm) gam Ketamine, 0,26 (không phẩy hai mươi sáu) gam Cần sa và 0,61( không phẩy sáu mươi mốt) gam Methamphetamine. Tổng khối lượng các chất ma túy là 1,71 (một phẩy bảy mốt) gam mục đích để sử dụng.Tại phiên tòa bị cáo đã khai nhận tội, lời nhận tội phù hợp với lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra, kết luận giám định về khối lượng ma túy.Vì vậy, Viện kiểm sát giữ nguyên quyết định truy tố đối với bị cáo Nguyễn Đức A về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ vào điểm i khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự, xử phạt bị cáo từ 01 năm 03 tháng đến 01 năm 06 tháng tù.

Không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo. Xử lý vật chứng, án phí, tuyên quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu có trong hồ sơ vụ án, đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an thành phố Lào Cai, tỉnh Lào Cai, Điều tra viên, Kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân thành phố Lào Cai trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng, biên bản niêm phong vật chứng, kết luận giám định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đều thực hiện hợp pháp.

[2] Hành vi phạm tội của bị cáo: Do nghiện chất ma túy, nên khoảng cuối tháng 6/2020, bị cáo Nguyễn Đức A gặp bạn tên T (không biết họ, địa chỉ) ở thị xã Sa Pa, tỉnh Lào Cai và được người này cho 01 (một) túi ma túy Ketamine; 01 (một) hộp ma túy Cần sa; 05(năm) viên ma túy Methamphetamine được đựng trong 01(một) túi nilon màu trắng và 01(một) túi nilon màu trắng bên trong chứa các mảnh ma túy Methamphetamine để sử dụng. Bị cáo mang số ma túy trên về nơi ở tại tổ 10, phường Pom Hán, thành phố Lào Cai, tỉnh Lào Cai. Tại đây, bị cáo cất giấu 01(một) túi nilon ma túy Ketamine vào trong vỏ bao thuốc lá nhãn hiệu “555”:

02 (hai) túi nilon chứa 05(năm) viên ma túy Methamphetamine và các mảnh ma túy Methamphetamine vào trong vỏ bao thuốc lá nhãn hiệu “CAMEL”; 01(một) hộp nhựa chứa ma túy Cần sa vào trong 01(một) túi vải màu đen bên trong túi có 01 (một) loa xách tay màu đen rồi cất giấu vào thùng xe ô tô biển kiểm soát 24C- 098.01. Khoảng 22 giờ 30 phút ngày 05/8/2020, bị cáo điều khiển xe ô tô biển kiểm soát 24C – 098.01 đưa Triệu T và Lý Thị T đến khách sạn Ngôi Sao thuộc tổ 23, phường Cốc Lếu, thành phố Lào Cai, tỉnh Lào Cai. Nguyễn Đức A thuê phòng 420 để nghỉ, thuê phòng 422 để Triệu T và Lý Thị T nghỉ.Tại đây bị cáo nảy sinh ý định mua ma túy để sử dụng và nghe nhạc cho hưng phấn nên đã đặt mua 03(ba) viên ma túy MDMA với giá 1.500.000đ (một triệu măm trăm nghìn đồng) của người đàn ông tên Phương. Sau khi mua được ma túy bị cáo lấy túi vải có chứa ma túy và chiếc loa ở xe ô tô biển kiểm soát 24C-098.01 lên phòng 420, bị cáo lấy từ trong túi vải ra chiếc loa, vỏ bao thuốc lá nhãn hiệu “555” bên trong có chứa ma túy Ketamine, hộp nhựa chứa ma túy Cần sa để trên kệ gỗ trong phòng. Bị cáo lấy 02(hai) viên ma túy MDMA cho vào chiếc chén sứ pha cùng với nước Coca để sử dụng và nghe nhạc thì Triệu T, Lý Thị T vào phòng chơi và cũng tự uống ma túy còn lại trong chén rồi tất cả cùng nhau nghe nhạc. Đến khoảng 02 giờ ngày 06/8/2020, Ngô Hồng T đến phòng 420 khách sạn Ngôi Sao chơi với bị cáo Nguyễn Đức A. Đến 02 giờ 05 phút ngày 06/8/2020, tổ công tác Cảnh sát điều tra tội phạm về ma túy Công an thành phố Lào Cai kiểm tra, phát hiện và bắt quả tang và thu giữ toàn bộ ma túy.

[3] Bị cáo là người có năng lực trách nhiệm hình sự, có hiểu biết pháp luật, bị cáo biết rõ Nhà nước nghiêm cấm mọi hành vi tàng trữ, mua bán trái phép các chất ma túy. Nhưng do nghiện chất ma túy, bị cáo đã thực hiện hành vi tàng trữ trái phép 0,34(không phẩy ba mươi tư) gam MDMA; 0,5(không phẩy năm) gam Ketamine và 0,61( không phẩy sáu mươi mốt) gam Methamphetamine. Tổng khối lượng các chất ma túy là 1,71 (một phẩy bảy mốt) gam mục đích để sử dụng cho bản thân. Hành vi của bị cáo đã xâm phạm vào chính sách độc quyền quản lý của Nhà nước về ma tuý, gây mất trật tự trị an ở địa phương. Hành vi của bị cáo đã cấu thành tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý”.Tội phạm và hình phạt được quy định tại điểm i khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự.

Hành vi phạm tội của bị cáo thuộc trường hợp nghiêm trọng. Vì vậy, cần phải xử phạt bị cáo thật nghiêm khắc trước pháp luật, phải cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian đủ để giáo dục, cải tạo bị cáo trở thành công dân tốt, có ích cho xã hội, đồng thời lấy đó làm bài học cho công tác đấu tranh, phòng chống tội phạm.

[4] Về tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.

Về tình tiết giảm nhẹ: Sau khi bị bắt, bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải. Ngoài ra, bị cáo còn có ông nội Nguyễn Sỹ Ngữ và bà ngoại Nguyễn Thị Đoan đều được tặng thưởng Huân chương kháng chiến hạng nhì. Đây là những tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được quy định tại điểm s khoản 1; khoản 2 Điều 51 của Bộ luật hình sự cần áp dụng để giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo theo quy định của pháp luật.

Về hình phạt bổ sung: Hội đồng xét xử, xét thấy của bị cáo không có tài sản riêng, không có khả năng để thi hành án nên không áp dụng thêm hình phạt bổ sung là phạt tiền với đối bị cáo.

[5] Về vật chứng vụ án: Số vật chứng còn lại sau trích mẫu bao gồm: 0,26 (không phẩy hai mươi sáu) gam MDMA; 0,4 (không phẩy bốn) gam ma túy Ketamine; 0,3 (không phẩy ba) gam Methamphetamine. Đây là các chất ma túy nhà nước cấm lưu hành nên tịch thu tiêu huỷ là phù hợp với điểm c khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự; điểm a khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự.

Đối với 01(một) điện thoại di động nhãn hiệu IPHONE X, màu trắng, số IMEI:

353055093922273; 01 (một) túi vải màu đen, có khóa kéo; 01 (một) loa màu đen, nhãn hiệu Harman/Kardo; 01 (một) chén sứ có quai, màu trắng, bị cáo đã dùng làm phương tiện phạm tội nên cần tịch thu: 01(một) điện thoại di động nhãn hiệu IPHONE X, màu trắng, số IMEI: 353055093922273, 01 (một) loa màu đen, nhãn hiệu Harman/Kardo để sung vào Ngân sách nhà nước; số vật chứng còn lại 01 (một) túi vải màu đen, có khóa kéo, 01 (một) chén sứ có quai, màu trắng không có giá trị sử dụng nên cần tịch thu tiêu hủy là phù hợp với điểm a, c khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự; điểm a, c khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự.

Đối với 01(một) điện thoại di động nhãn hiệu IPHONE SE, màu xám, số IMEI: 358542078390597; tiền ngân hàng nhà nước Việt Nam 4.200.000đ(bốn triệu hai trăm nghìn đồng) là tài sản của bị cáo không liên quan đến hành vi phạm tội nên trả lại cho bị cáo là phù hợp với điểm a khoản 3 Điều 106 của Luật tố tụng hình sự. Tuy nhiên, bị cáo còn phải thi hành án khoản tiền án phí nên cần tạm giữ số tiền 200.000đ( hai trăm ngàn đồng) trong tổng số 4.200.000đ (bốn triệu hai trăm nghìn đồng),số tiền còn lại trả cho bị cáo.

[6] Do bị cáo bị kết án nên bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên:

QUYẾT ĐỊNH

1.Tuyên bố bị cáo Nguyễn Đức A phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý’’.

Căn cứ vào điểm i Khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự:

Xử phạt bị cáo Nguyễn Đức A 01(một) năm 03(ba) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày bắt bị cáo đi thi hành án. Khấu trừ cho bị cáo 37(ba mươi bẩy) ngày tạm giữ, tạm giam từ ngày 06/8/2020 đến ngày 11/9/2020.

2. Về xử lý vật chứng: Căn cứ vào điểm a, c Khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự và điểm a,c khoản 2; điểm a khoản 3 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự:

Tịch thu tiêu hủy: Mẫu M1: 0,26 (không phẩy hai mươi sáu) gam ma túy MDMA; Mẫu M2: 0,4(không phẩy bốn) gam ma túy Ketamine; Mẫu M4: 0,3 (không phẩy ba) gam ma túy Methamphetamine được niêm phong trong 01( một) bì thư niêm phong của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Lào Cai, cùng các vỏ bao thuốc lá, hộp nhựa, các túi nilon và các bì niêm phong ban đầu gửi giám định. Tại các mép dán của bì niêm phong này có chữ ký cúa các thành phần tham gia, người bị bắt, dấu hình tròn, màu đỏ của Phòng kỹ thuật Hình sự- Công an tỉnh Lào Cai, trên một mặt của bì niêm phong mới này có ghi: “Vật chứng còn lại sau trích mẫu giám định thu giữ trong quá trình khi bắt quả tang đối với Nguyễn Đức A, Ngô Hồng T, Lý Thị T, Triệu T ngày 06/8/2020 tại phòng 420, khách sạn Ngôi Sao, tổ 23, phường Cốc Lếu, thành phố Lào Cai, tỉnh Lào Cai” và 01(một) túi vải màu đen, có khóa kéo, 01 (một) chén sứ có quai, màu trắng.

Tịch thu của bị cáo Nguyễn Đức A 01(một) chiếc điện thoại di động nhãn hiệu IPHONE X, màu trắng, số IMEI: 353055093922273, đã qua sử dụng; 01( một) loa màu đen,nhãn hiệu Harman/Kardon để sung vào Ngân sách nhà nước.

Trả lại cho bị cáo Nguyễn Đức A 01(một) điện thoại di động nhãn hiệu IPHONE SE, màu xám, số IMEI: 358542078390597 đã qua sử dụng.

Tạm giữ 200.000đ( hai trăm ngàn đồng) tiền Việt Nam của bị cáo Nguyễn Đức A để đảm bảo công tác thi hành án về khoản tiền án phí. Số tiền còn lại 4.000.000đ (bốn triệu đồng) tiền Việt Nam trả lại cho bị cáo Nguyễn Đức A.(Vật chứng được thể hiện theo biên bản giao nhận vật chứng ngày 09/10/2020).

3. Về án phí: Áp dụng khoản 2 Điều 135; khoản 2 Điều 136 của Bộ luật tố tụng Hình sự và Nghị quyết 326/2016/UBTVQH ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về án phí, lệ phí Tòa án: Buộc bị cáo Nguyễn Đức A phải chịu 200.000đ( Hai trăm ngàn đồng) tiền án phí hình sự sơ thẩm.

Bị cáo có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

"Trong trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành theo quy định tại các điều 6, 7, 7a và 9 Luật Thi hành án dân sự: thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự".

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

219
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 95/2020/HSST ngày 26/10/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:95/2020/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Lào Cai - Lào Cai
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 26/10/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về