TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ TUYÊN QUANG, TỈNH TUYÊN QUANG
BẢN ÁN 95/2020/HS-ST NGÀY 25/09/2020 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN
Ngày 25 tháng 9 năm 2020, tại trụ sở Toà án nhân dân thành phố Tuyên Quang, tỉnh Tuyên Quang mở phiên tòa công khai xét xử sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số 100/2020/TLST- HS ngày 11 tháng 9 năm 2020 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 95/2020/QĐXXST- HS ngày 14/9/2020, đối với bị cáo:
VŨ BÁCH L, sinh ngày 02/9/1980 tại Tuyên Quang.
Trú tại: Tổ 1, phường M, thành phố T, tỉnh T; nghề nghiệp: Lao động tự do;
trình độ học vấn 5/12; con ông: Vũ Bách T (đã chết) và bà Trần Thị T, sinh năm 1957; vợ: Thèn Thị G, sinh năm 1989 (đã ly hôn năm 2017); Con: có 01 con (sinh năm 2012).
* Tiền sự: Không;
* Tiền án:
- Ngày 23/8/2016, bị Tòa án nhân dân thành phố Tuyên Quang, xử phạt 01 năm 03 tháng tù về tội: Trộm cắp tài sản theo Bản án số 70/2016/HSST. Vũ Bách L đã chấp hành xong án phạt tù ngày 28/4/2017.
- Ngày 07/11/2018, bị Tòa án nhân dân tỉnh Tuyên Quang xét xử phúc thẩm giữ nguyên quyết định bản án sơ thẩm số 90/2018/HSST ngày 06/9/2018 của Tòa án nhân dân thành phố Tuyên Quang, xử phạt Vũ Bách L 01 năm tù về tội: Trộm cắp tài sản. Chấp hành xong án phạt tù ngày 01/7/2019.
* Nhân thân:
- Ngày 17/4/1997, bị Tòa phúc thẩm Tòa án nhân dân tối cao tại Hà Nội, xử phạt 36 tháng tù về tội: Trộm cắp tài sản của công dân theo bản án số 511.
- Ngày 01/4/1999, bị Tòa phúc thẩm Tòa án nhân dân tối cao tại Hà Nội, xử phạt 02 năm tù về tội Trốn khỏi nơi giam; 05 năm tù về tội Trộm cắp tài sản của công dân theo bản án số 451, tổng hợp với hình phạt (phần chưa thi hành) của Bản án số 511 ngày 17/4/1997, buộc Vũ Bách L phải chấp hành hình phạt chung là 07 năm 11 tháng 17 ngày.
Bị cáo Vũ Bách L hiện đang áp dụng biện pháp ngăn chặn Cấm đi khỏi nơi cư trú tại phường Minh Xuân, thành phố Tuyên Quang, tỉnh Tuyên Quang.
Có mặt tại phiên tòa.
* Người bị hại: Ông Nguyễn Ngọc T, sinh năm 1979.
Địa chỉ: SN 4, ngõ 1, đường T, tổ 15, phường M, thành phố T, tỉnh Tuyên Q.
Có đơn xin vắng mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Khoảng 20 giờ ngày 06/5/2020, Vũ Bách L (là người đang có 02 tiền án về tội trộm cắp tài sản) điều khiển xe môtô nhãn hiệu Yamaha - Novo, biển kiểm soát 22K9-4246 (xe L mua của bà Phùng Thị N, trú tại tổ 1, phường T, thành phố T) từ nhà mẹ đẻ là bà Trần Thị T, trú tại tổ 1, phường H, thành phố T đi về nhà. Vào hồi 20 giờ 27 phút cùng ngày, khi L đi đến nhà ông Nguyễn Ngọc T thuộc tổ 15, phường M, thành phố T thấy đóng cửa, tại bậc tam cấp trước cửa nhà có 01 đôi dép cao su màu đen, trước cửa nhà để 02 chiếc xe môtô và 01 chiếc xe đạp mini trẻ em màu hồng. Quan sát thấy không có người trông coi, L nảy sinh ý định trộm cắp tài sản. L tắt máy xuống xe, vào cửa nhà lấy trộm đôi dép mang ra chỗ để xe môtô, thấy không có người nên L quay lại, trộm cắp chiếc xe đạp mini màu hồng, bê chiếc xe đạp để phía sau yên xe môtô rồi tay trái cầm đôi dép cao su, tay phải điều khiển xe môtô về nhà, cất giấu đôi dép và chiếc xe trong nhà, sau đó đi ngủ.
Tại Bản Kết luận định giá tài sản số 39 ngày 26/6/2020 của Hội đồng định giá tài sản trong Tố tụng hình sự thành phố Tuyên Quang, kết luận: Xe đạp mini AMIDA, sản xuất năm 2018, kiểu dáng xe dành cho trẻ em có giá là 900.000 đồng; Đôi dép cao su đã qua sử dụng có giá trị 50.000 đồng. Tổng giá trị của các tài sản:
950.000 đồng (Chín trăm năm mươi nghìn đồng).
Quá trình điều tra, ngày 07/5/2020 tạm giữ 01 đôi dép cao su màu đen, 01 xe đạp mini nhãn hiệu AMIDA màu hồng, kiểu xe dành cho trẻ em do L giao nộp. Ngày 12/5/2020 tạm giữ của L xe môtô nhãn hiệu Yamaha - Novo, màu sơn đen, biển kiểm soát 22K9-4246 và giấy đăng ký môtô, xe máy số 011732 mang tên Trần Lệ T. Ngày 01/7/2020, Cơ quan CSĐT Công an thành phố Tuyên Quang trả lại dép cao su, xe đạp cho bị hại ông Nguyễn Ngọc T.
Trách nhiệm dân sự: Bị hại Nguyễn Ngọc T nhận lại tài sản, không yêu cầu bị can bồi thường dân sự.
Tại cơ quan điều tra, bị cáo Vũ Bách L đã khai nhận hành vi phạm tội của mình.
Từ nội dung trên, tại bản Cáo trạng số 94/CT-VKSTP ngày 09 tháng 9 năm 2020, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Tuyên Quang đã truy tố bị cáo Vũ Bách L về tội “Trộm cắp tài sản” theo điểm b khoản 1 Điều 173 Bộ luật Hình sự.
Tại phiên tòa, kết thúc phần xét hỏi, Kiểm sát viên giữ quyền công tố vẫn giữ nguyên quan điểm truy tố bị cáo Vũ Bách L về tội “Trộm cắp tài sản” và đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm b khoản 1 Điều 173; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38 Bộ luật Hình sự để xử phạt bị cáo Vũ Bách L từ 07 đến 10 tháng tù; đề nghị Hội đồng xét xử không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo. Về vật chứngVề dân sự, do người bị hại không có yêu cầu nên đề nghị Hội đồng xét xử không xem xét. Ngoài ra, kiểm sát viên còn đề nghị Hội đồng xẻ xử tuyên quyền kháng cáo và buộc bị cáo phải chịu án phí theo quy định của pháp luật.
Trong quá trình điều tra, bị cáo Vũ Bách L đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình. Tại phiên tòa, bị cáo tiếp tục khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình, nội dung khai báo của bị cáo tại phiên tòa hoàn toàn phù hợp với lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra, không có tình tiết gì mới; bị cáo không có ý kiến hay khiếu nại gì về kết luận định giá tài sản số 39 ngày 26/6/2020 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự thành phố Tuyên Quang; bị cáo nhất trí với luận tội của đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Tuyên Quang, không có ý kiến tranh luận và cũng không có ý kiến gì để bào chữa cho hành vi phạm tội của mình.
Kết thúc phần tranh luận, bị cáo Vũ Bách L nói lời sau cùng: Xin Hội đồng xét xử cho hưởng mức án nhẹ nhất để sớm trở về nuôi con nhỏ.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Về tính hợp pháp của các hành vi, quyết định tố tụng: Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Tuyên Quang, Điều tra viên; Viện kiểm sát nhân dân thành phố Tuyên Quang, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự; Tại phiên tòa, Kiểm sát viên đã thực hiện đúng nhiệm vụ, quyền hạn khi thực hành quyền công tố. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.
[2] Về hành vi phạm tội của bị cáo: Tại phiên tòa, bị cáo Vũ Bách L tiếp tục khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình, phù hợp với lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra. Hành vi phạm tội của bị cáo còn được chứng minh bằng: Biên bản làm việc; Bản kết luận định giá tài sản; biên bản xác minh hiện trường; lời khai của bị hại cùng các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án. Do vậy Hội đồng xét xử có đủ cơ sở kết luận: Hồi 20 giờ 27 phút ngày 06/5/2020, tại nhà ông Nguyễn Ngọc T, trú tại tổ 1, phường M, thành phố T, Vũ Bách L, có 02 tiền án về tội trộm cắp tài sản, có hành vi trộm cắp 01 xe đạp AMIDA màu hồng, kiểu xe dành cho trẻ em trị giá 900.000 đồng; 01 đôi dép cao su màu đen đã qua sử dụng trị giá 50.000 đồng của ông Nguyễn Ngọc T. Tổng giá trị các tài sản Lợi trộm cắp được: 950.000 đồng (chín trăm năm mươi nghìn đồng).
Bị cáo là người có năng lực trách nhiệm hình sự, đủ tuổi chịu trách nhiệm hình sự, hành vi của bị cáo thực hiện với lỗi cố ý , xâm phạm đến quyền sở hữu của người khác về tài sản. Do vậy, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Tuyên Quang truy tố bị cáo về tội Trộm cắp tài sản theo quy định tại khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự là đúng người, đúng tội, đúng quy định.
[3] Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo thành khẩn khai báo, tỏ ra ăn năn hối cải nên được áp dụng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự.
[4] Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo hiện đang có 02 tiền án chưa được xoá án tích, lần phạm tội này thuộc trường hợp tái phạm nên bị áp dụng tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự quy định tại điểm h khoản 1 Điều 52 của Bộ luật Hình sự.
[5] Về mức án mà Viện kiểm sát đề nghị: Xét thấy hành vi phạm tội của bị cáo đã gây mất trật tự trị an tại địa phương, gây tâm lý hoang mang trong quần chúng nhân dân; bị cáo đã có tiền án và nhân thân xấu, phạm tội thuộc trường hợp tái phạm.Vì vậy cần buộc bị cáo phải chấp hành hình phạt tại cơ sở giam giữ trong một thời hạn nhất định nhằm giáo dục bị cáo và phòng ngừa tội phạm chung.
Căn cứ tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội của bị cáo; giá trị tài sản bị cáo đã trộm cắp cũng như các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự áp dụng đối với bị cáo, Hội đồng xét xử thấy mức án mà Viện kiểm sát đề nghị là phù hợp nên chấp nhận.
[6] Về hình phạt bổ sung: Xét bị cáo không có nghề nghiệp và thu nhập nên không áp dụng hình phạt bổ sung (phạt tiền) đối với bị cáo.
[7] Về dân sự: Người bị hại Nguyễn Ngọc T đã nhận lại tài sản bị trộm cắp, không có yêu cầu gì khác đối với bị cáo về bồi thường dân sự nên HĐXX không xem xét.
[8] Về vật chứng và đồ vật bị thu giữ: Ngày 01/7/2020, Cơ quan CSĐT Công an thành phố Tuyên Quang đã trả lại dép cao su và xe đạp mini nhãn hiệu AMIDA cho bị hại, ông Nguyễn Ngọc T không có yêu cầu đề nghị gì khác.
Ngày 12/5/2020, Cơ quan CSĐT Công an thành phố Tuyên Quang tạm giữ của Vũ Bách L xe môtô nhãn hiệu Yamaha - Novo, màu sơn đen, biển kiểm soát 22K9-4246 và giấy đăng ký môtô, xe máy số 011732 mang tên Trần Lệ T. Xét đây là phương tiện sinh hoạt hàng ngày của bị cáo nên trả lại cho bị cáo Vũ Bách L.
[9] Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.
[10] Bị cáo có quyền kháng cáo bản án theo quy định của pháp luật.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
1. Về tội danh, điều luật áp dụng và hình phạt: Căn cứ điểm b khoản 1 Điều 173; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38 của Bộ luật Hình sự.
Tuyên bố: Bị cáo Vũ Bách L phạm tội "Trộm cắp tài sản".
Xử phạt bị cáo Vũ Bách L 08 (Tám) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày bị cáo chấp hành án.
2. Về đồ vật bị thu giữ: Căn cứ và Điều 106 của Bộ luật tố tụng hình sự và Điều 47 của Bộ luật hình sự Trả lại cho bị cáo 01 xe môtô nhãn hiệu Yamaha - Novo, màu sơn đen, đã qua sử dụng, biển kiểm soát 22K9-4246 và giấy đăng ký môtô, xe máy số 011732 mang tên Trần Lệ T.
Tình trạng vật chứng như biên bản giao nhận vật chứng giữa Công an thành phố Tuyên Quang và Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Tuyên Quang ngày 22/9/2020.
3. Về án phí: Căn cứ khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án:
Bị cáo Vũ Bách L phải chịu 200.000đ (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.
4. Về quyền kháng cáo: Căn cứ khoản 1 Điều 331, khoản 1 Điều 333 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015:
Bị cáo Vũ Bách L được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.
Người bị hại – ông Nguyễn Ngọc T được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết theo quy định.
Bản án 95/2020/HS-ST ngày 25/09/2020 về tội trộm cắp tài sản
Số hiệu: | 95/2020/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Thành phố Tuyên Quang - Tuyên Quang |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 25/09/2020 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về