Bản án 95/2020/HNST ngày 25/11/2020 về thay đổi người trực tiếp nuôi con sau ly hôn

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN HỚN QUẢN, TỈNH BÌNH PHƯỚC

BẢN ÁN 95/2020/HNST NGÀY 25/11/2020 VỀ THAY ĐỔI NGƯỜI TRỰC TIẾP NUÔI CON SAU LY HÔN

Trong các ngày 24 và tuyên án vào ngày 25/11/2020 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện H xét xử sơ thẩm, công khai vụ án hôn nhân và gia đình thụ lý số: 358/2020/TLST-HNGĐ ngày 07 tháng 10 năm 2020 về việc “Thay đổi người trực tiếp nuôi con sau ly hôn” theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số 94/2020/QĐST- HNGĐ ngày 09/11/2020 giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Chị Trần Thị Thu H, sinh năm 1992 (có mặt) Hộ khẩu thường trú: Tổ 2, ấp X, xã A, huyện H, tỉnh Bình Phước. Nơi đăng ký tạm trú: Ấp 8, xã T, huyện H, tỉnh Bình Phước.

- Bị đơn: Anh Nguyễn Thanh L, sinh năm 1986 (Vắng mặt có đơn xin xét xử vắng mặt) Địa chỉ: Tổ 2, ấp Xa Cát, xã A, huyện H, tỉnh Bình Phước.

NỘI DUNG VỤ ÁN

* Theo đơn khởi kiện, quá trình giải quyết vụ án và tại phiên Tòa nguyên đơn Trần Thị Thu H trình bày:

Chị Trần Thị Thu H và anh Nguyễn Thanh L trước đây là vợ chồng nhưng đã ly hôn theo Quyết định công nhận thuận tình ly hôn và sự thỏa thuận của các đương sự số 194/2020/QĐST-HNGĐ ngày 17/8/2020 của Tòa án nhân dân huyện H, tỉnh Bình Phước. Theo Quyết định thì chị H và anh L thống nhất giao cháu Nguyễn Trúc M cho anh Nguyễn Thanh L trực tiếp chăm sóc và nuôi dưỡng. Tuy nhiên, sau khi được nhận được nuôi con thì anh L thường xuyên đi làm ăn xa, không có thời gian để chăm sóc con và giao con cho bà nội đã lớn tuổi chăm sóc. Nên nay chị Trần Thị Thu H đề nghị Tòa án nhân dân huyện H, tỉnh Bình Phước thay đổi người trực tiếp nuôi con, giao cháu Nguyễn Trúc M, sinh ngày 01/01/2019 cho chị Trần Thị Thu H trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng, chị H không yêu cầu anh L cấp dưỡng nuôi con.

Chứng cứ nguyên đơn cung cấp bao gồm: Hợp đồng lao động giáo viên hàng năm, bảng xác nhận đóng bảo hiểm xã hội, Hợp đồng thuê nhà trọ, Giấy xác nhận của bà Trần Thị Hải để chứng minh cho điều kiện thu nhập đảm bảo nuôi con của chị H.

Tại phiên Tòa nguyên đơn giữ nguyên yêu cầu khởi kiện, không trình bày thêm các ý kiến khác.

* Trong quá trình giải quyết vụ án bị đơn Nguyễn Thanh L trình bày:

Anh Nguyễn Thanh L thống nhất như ý kiến của chị H là vợ chồng anh đã ly hôn theo Quyết định của Tòa án nhân dân huyện H, tỉnh Bình Phước. Khi ly hôn, anh L và chị H thống nhất giao cháu Nguyễn Trúc M, sinh ngày 01/01/2019 cho anh L trực tiếp nuôi dưỡng, chị H không phải cấp dưỡng nuôi con, khi thỏa thuận giao con cho anh nuôi dưỡng là do điều kiện của chị H không đủ để nuôi con. Sau khi ly hôn thì anh L có nhờ bà nội cháu phụ giúp việc trông cháu, anh đi làm và có thu nhập khoảng 13 triệu/tháng, không phải đi làm xa nên có thời gian chăm sóc cháu M. Đồng thời hiện nay chị H đang mang thai gần đến ngày sinh nên không có đủ điều kiện để nuôi con. Trước yêu cầu khởi kiện của chị H về việc yêu cầu được trực tiếp nuôi cháu Nguyễn Trúc M thì anh L không đồng ý. Anh L xin được giải quyết vắng mặt.

Ngoài bản trình bày ý kiến tại biên bản lấy lời khai anh L không cung cấp thêm chứng cứ nào khác và không có yêu cầu phản tố.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện H tham gia phiên tòa phát biểu:

Về tố tụng: Thẩm phán đã tuân thủ đúng quy định của pháp luật tố tụng dân sự về việc thu thập chứng cứ, giải quyết vụ án từ khi thụ lý vụ án đến trước khi Hội đồng xét xử mở phiên toà. Tại phiên toà hôm nay, Hội đồng xét xử đã tuân thủ đúng quy định của pháp luật tố tụng dân sự.

Về nội dung vụ án: Căn cứ Điều 84, Luật Hôn nhân gia đình về điều kiện để thay đổi người nuôi con thì chị H không đảm bảo, hiện làm nghề giáo viên thu nhập thấp, đang ở nhà trọ, ngoài ra chị H mới sinh con nên đề nghị Hội đồng xét xử xem xét không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.

Kiến nghị: Không có.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ kết quả tranh luận tại phiên tòa, Ý kiến của đại diện Viện kiểm sát, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về tố tụng:

Trong vụ án này, chị Trần Thị Thu H khởi kiện yêu cầu Tòa án thay đổi người trực tiếp nuôi con sau ly hôn, bị đơn là anh Nguyễn Thanh L hiện cư trú tại xã A, huyện H, tỉnh Bình Phước. Căn cứ theo khoản 1 Điều 28, khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39 của Bộ luật tố tụng dân sự thì đây là vụ án thay đổi người trực tiếp nuôi con sau ly hôn, thuộc thẩm quyền nên Tòa án nhân dân huyện H, tỉnh Bình Phước thụ lý, giải quyết vụ án là đúng pháp luật tố tụng.

Tại phiên tòa, bị đơn vắng mặt nhưng đã có đơn xin xét xử vắng mặt nên Hội đồng xét xử vẫn tiếp tục xét xử vụ án mà không hoãn phiên Tòa theo quy định tại Điều 227 của Bộ luật tố tụng dân sự.

[2] Về nội dung vụ án:

Chị Trần Thị Thu H và anh Nguyễn Thanh L trước đây là vợ chồng nhưng đã ly hôn theo Quyết định công nhận thuận tình ly hôn và sự thỏa thuận của các đương sự số 194/2020/QĐST-HNGĐ ngày 17/8/2020 của Tòa án nhân dân huyện H, tỉnh Bình Phước, vợ chồng có 01 con chung tên Nguyễn Trúc M, sinh ngày 01/01/2019. Khi ly hôn, theo sự thỏa thuận của các đương sự, Tòa án giao con chung cho anh L trực tiếp nuôi dưỡng. Hiện nay, chị H nhận thấy anh L thường xuyên đi làm xa, không có thời gian lo cho con, giao con cho bà nội đã lớn tuổi chăm sóc nên yêu cầu Tòa án thay đổi người trực tiếp nuôi con sau ly hôn, yêu cầu được tiếp nuôi dưỡng cháu M, không yêu cầu anh L cấp dưỡng nuôi con. Anh Nguyễn Thanh L không đồng ý với yêu cầu khởi kiện của chị H vì cho rằng mình vẫn chăm sóc, nuôi con tốt, con vẫn phát triển bình thường và chị H không có đủ điều kiện nuôi con do đang mang bầu và không có kinh tế.

Sau khi xem xét các tài liệu, chứng cứ mà đương sự giao nộp, quá trình xác minh thu thập chứng cứ, Hội đồng xét xử nhận thấy: Tại thời điểm Tòa án xét xử cháu Nguyễn Trúc M – sinh 01/01/2019 mới được 01 tuổi 10 tháng 25 ngày, (dưới 36 tháng tuổi). Quá trình anh L được giao theo sự thỏa thuận của anh L, chị H để trực tiếp nuôi con từ tháng 8/2020 đến nay thì anh L chưa thực hiện đúng nghĩa vụ của người cha. Theo lời khai của bà Huỳnh Thanh K (mẹ anh L) thì bà Huỳnh Thanh Kiếm trực tiếp chăm sóc cháu M, anh L thường xuyên làm ăn xa và có chu cấp tiền về để cho bà Kiếm nuôi dưỡng cháu.

Anh L xác định anh làm thợ hồ, có công việc và thu nhập ổn định, cuộc sống sinh hoạt của cháu M vẫn diễn ra bình thường. Tuy nhiên anh L không giao nộp được những tài liệu, chứng cứ để chứng minh cho lời trình bày của mình là có căn cứ. Ngoài ra, anh L cũng không mong muốn trực tiếp tham gia hòa giải, trình bày ý kiến của mình tại phiên Tòa với nguyên đơn mà xin vắng mặt là chưa thể hiện ý chí để bảo đảm quyền lợi được nuôi con chung.

Trong quá trình giải quyết vụ án, chị H có cung cấp Giấy xác nhận của bà Trần Thị Hải- mẹ ruột của chị Trần Thị Thu H xác nhận việc bà Hải mỗi tháng phụ giúp chị H số tiền 2.000.000đ, mặc dù là ở trọ nhưng chị H đã có nơi ở, hiện chị H là giáo viên, có nguồn thu nhập. Mặc dù, tại thời điểm xét xử chị H còn đang nuôi con nhỏ, nhưng với việc cháu Nguyễn Trúc M là bé gái, hiện cháu chưa đủ 36 tháng tuổi, chị H với nghề nghiệp là giáo viên dạy trẻ, việc giao cho chị H trực tiếp chăm sóc, dạy dỗ cháu, sẽ tạo điều kiện để cháu M phát triển tốt nhất, đảm bảo quyền lợi mọi mặt của cháu. Phù hợp với quy định tại Điều 81 của Luật hôn nhân gia đình năm 2014, quy định về việc chăm nom, chăm sóc, nuôi dưỡng giáo dục con sau khi ly hôn “Con dưới 36 tháng tuổi được giao cho mẹ trực tiếp nuôi, trừ trường hợp người mẹ không đủ điều kiện để trực tiếp trông nom, chăm sóc, giáo dục con….”. Đến thời điểm hiện tại, chị H chứng minh được điều kiện được nuôi con của mình. Do đó, việc chấp nhận yêu cầu của chị H, giao cháu M cho chị H trực tiếp nuôi dưỡng là hoàn toàn có cơ sở, đúng pháp luật.

Đối với việc cấp dưỡng nuôi con: Quá trình giải quyết vụ án chị H không yêu cầu anh L cấp dưỡng nuôi con nên Hội đồng xét xử không xem xét. Chị H có quyền khởi kiện thành một vụ án khác về việc cấp dưỡng nuôi con khi cần thiết với nguyện vọng của mình.

Xét ý kiến của đại diện Viện kiểm sát tại phiên tòa phù hợp với Hội đồng xét xử về việc tuân theo pháp luật tố tụng nên cần chấp nhận. Về nội dung vụ án không phù hợp với quan điểm của Hội đồng xét xử nên không được chấp nhận.

[3] Về án phí: Đương sự phải chịu án phí theo quy định.

Vì các lẽ nêu trên;

QUYẾT ĐỊNH

Áp dụng khoản 1 Điều 28, khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39, khoản 1 Điều 227 của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015;

Áp dụng các Điều 81, 82, 83 và 84 của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014;

Áp dụng Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án của Ủy ban thường vụ Quốc Hội:

Tuyên xử:

[1] Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của chị Trần Thị Thu H về việc yêu cầu thay đổi người trực tiếp nuôi con sau ly hôn.

Giao cháu Nguyễn Trúc M, sinh ngày 01/01/2019 cho chị Trần Thị Thu H trực tiếp nuôi dưỡng.

Sau khi ly hôn, người không trực tiếp nuôi con có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở. Cha, mẹ không trực tiếp nuôi con lạm dụng việc thăm nom để cản trở hoặc gây ảnh hưởng xấu đến việc trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con thì người trực tiếp nuôi con có quyền yêu cầu Tòa án hạn chế quyền thăm nom con của người đó.

[2] Về án phí: Chị Trần Thị Thu H không phải chịu án phí, Chi cục thi hành án dân sự huyện H, tỉnh Bình Phước trả lại cho chị H số tiền 300.000đ (Ba trăm ngàn đồng) án phí hôn nhân và gia đình chị H đã nộp theo biên lai thu số 0002178 ngày 06/10/2020. Anh Nguyễn Văn Lâm phải chịu 300.000đ án phí Hôn nhân sơ thẩm.

[3] Về quyền kháng cáo:

Chị H có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 (mười lăm) ngày kể từ ngày tuyên án, anh L có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 (mười lăm) ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc tống đạt bản án hợp lệ để yêu cầu Tòa án cấp trên xét xử theo thủ tục phúc thẩm.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

385
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 95/2020/HNST ngày 25/11/2020 về thay đổi người trực tiếp nuôi con sau ly hôn

Số hiệu:95/2020/HNST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Hớn Quản - Bình Phước
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 25/11/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về