Bản án 95/2020/HNGĐ-ST ngày 30/09/2020 về tranh chấp ly hôn, tranh chấp nuôi con

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN YÊN THÀNH, TỈNH NGHỆ AN

BẢN ÁN 95/2020/HNGĐ-ST NGÀY 30/09/2020 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON

Ngày 30/9/2020 tại trụ sở Toà án nhân dân huyện Yên Thành, tỉnh Nghệ An xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 282/2020/TLST- HNGĐ ngày 20 tháng 8 năm 2020 về tranh chấp "Ly hôn, tranh chấp về nuôi con" theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 124/2020/QĐXX-ST ngày 15 tháng 9 năm 2020; Quyết định hoãn phiên tòa số /2020/QĐST –HNGĐ ngày 23/9/2020 giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Chị Nguyễn Thị Tr – sinh năm 1995;Địa chỉ: xóm T Ph, xã K Th, huyện Yên Thành, tỉnh Nghệ An. Có mặt.

2. Bị đơn: Anh Phan Văn H– sinh năm 1995; Địa chỉ: xóm T Ph, xã K Th, huyện Yên Thành, tỉnh Nghệ An. Vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Tại đơn xin ly hôn và các lời khai ngày 31/8/2020 trong quá trình giải quyết vụ án cũng như tại phiên tòa sơ thẩm, nguyên đơn Chị Nguyễn Thị Tr trình bày: Chị Nguyễn Thị Tr và anh Phan Văn H đăng ký kết hôn ngày 26/02/2015, tại Uỷ ban nhân dân xã Kh Th, huyện Yên Thành, tỉnh Nghệ An. Hôn nhân hoàn toàn tự nguyện. Quá trình chung sống vợ chồng sống hạnh phúc được một thời gian ngắn thì phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân là do bất đồng quan điểm sống, anh Hkhông tôn trọng vợ con, thường xuyên xúc phạm chị và con, anh Hkhông lo làm ăn chăm sóc gia đình nên vợ chồng thường xảy ra mâu thuẫn dẫn đến tình cảm ngày càng phai nhạt, vợ chồng sống ly thân từ tháng 01/2020 đến nay, chị Tr đã về ở nhà bố mẹ đẻ. Nay chị Tr xác định tình cảm không còn nên chị Tr đề nghị Tòa án giải quyết được ly hôn với anh H.

Về con chung: Vợ chồng có 02 người con chung; Phan Văn Thế A, sinh ngày 25/4/2016, Phan Văn Usinh ngày 12/11/2008; Hai cháu Thế A Phan Văn Ucòn nhỏ nguyện vọng của chị Tr là không tách rời hai cháu, cháu Phan Văn Uchưa đủ 36 tháng tuổi hiện nay hai cháu đang được chị Tr trực tiếp nuôi dưỡng. Chị Tr yêu cầu được tiếp tục trực tiếp chăm sóc nuôi dưỡng và giáo dục cháu Thế A và Văn U cho đến khi đủ 18 tuổi,trưởng thành, không yêu cầu anh H cấp dưỡng nuôi con chung.

Về tài sản chung và khoản nợ: Vợ chồng tự thỏa thuận, không yêu cầu Tòa án giải quyết.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi xem xét các tài liệu có trong hồ sơ vụ án, được thẩm tra tại phiên Toà và căn cứ vào kết quả xét hỏi, tranh luận tại phiên Toà, Hội đồng xét xử XÉT THẤY

Đây là vụ án tranh chấp về hôn nhân và gia đình được quy định tại khoản 1 Điều 28 Bộ luật tố tụng dân sự thuộc thẩm quyền giải quyết của tòa án.

Quá trình giải quyết vụ án cũng như tại phiên Toà sơ thẩm, bị đơn anh Phan Văn Hkhông có mặt theo giấy triệu tập của Tòa án, từ chối nhận các văn bản tố tụng của Tòa án vì vậy Tòa án đã lập các biên bản theo quy định tố tụng Nên không thể tiến hành các bước thu thập chứng cứ, hòa giải theo quy định pháp luật. Cần thiết xét xử vụ án vắng mặt bị đơn theo quy định tại điều 70, khoản 1 điều 207, điều 208, điểm b khoản 2 điều 227 Bộ luật tố tụng dân sự.

[1].Về quan hệ hôn nhân: Chị Nguyễn Thị Tr và Anh Phan Văn H có đăng ký kết hôn tại Uỷ ban nhân dân xã Kh Th, huyện Yên Thành, tỉnh Nghệ An theo Giấy chứng nhận kết hôn số 14/2015 ngày 26/02/2015, không vi phạm Điều 8 Luật hôn nhân và gia đình về điều kiện kết hôn. Đây là hôn nhân hợp pháp được pháp luật bảo vệ. Sau khi kết hôn vợ chồng chung sống hạnh phúc được năm năm, nhưng thời gian gần đây thường xuyên xẩy ra mâu thuẫn. Xác định tình cảm không còn chị Tr cương quyết xin được ly hôn.

Xét thấy: Quá trình chung sống vợ chồng sống hạnh phúc được một thời gian ngắn thì phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân là do do bất đồng quan điểm sống, không tôn trọng lẫn nhau nên vợ chồng thường xẩy ra mâu thuẫn dẫn đến tình cảm ngày càng phai nhạt. Vợ chồng sống ly thân từ tháng 01/2020 đến nay. Mâu thuẫn này đã đến mức trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được. Qua các lần triệu tập của Tòa án nhưng anh Hkhông nhận văn bản tố tụng của Tòa án, không quan tâm đến mối quan hệ hôn nhân với chị Trang, để mặc chị Tr muốn làm gì thì làm, Tòa án muốn giải quyết như thế nào anh Hkhông quan tâm.Căn cứ vào khoản 1 Điều 56 luật Hôn nhân và gia đình chấp nhận yêu cầu của chị Tr là được ly hôn với anh H.

[2].Về con chung: Chị Tr và anh H có hai người con chung: Vợ chồng có 02 người con chung; Phan Văn Thế A, sinh ngày 25/4/2016, Phan Văn Usinh ngày 12/11/2008; Hai cháu Thế A Phan Văn Ucòn nhỏ nguyện vọng của chị Tr là không tách rời hai cháu, cháu Phan Văn Uchưa đủ 36 tháng tuổi hiện nay hai cháu đang được chị Tr trực tiếp nuôi dưỡng. Chị Tr yêu cầu được tiếp tục trực tiếp chăm sóc nuôi dưỡng và giáo dục cháu Thế A và Văn U cho đến khi đủ 18 tuổi,trưởng thành, không yêu cầu anh H cấp dưỡng nuôi con chung. Theo quy định Tòa án chỉ giao con cho người nào có mặt tại phiên Tòa. Chị Tr có đầy đủ điều kiện để trực tiếp nuôi con, vì vậy cần giao con chung cho chị Tr được trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng. Trong bản tự khai và cũng như tại phiên tòa hôm nay chị Tr không yêu cầu anh H cấp dưỡng nuôi con chung vì vậy cần tạm hoãn cấp dưỡng nuôi con chung cho anh Phan Văn Hùng.

[3].Về tài sản chung và khoản nợ: Chị Tr không yêu cầu giải quyết nên Toà án không xem xét.

[4].Về án phí: Chị Tr phải chịu án phí dân sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào khoản 1 Điều 28; khoản 2, Điều 227; khoản 1 Điều 273; khoản 3 Điều 144; khoản 4 Điều 147 Bộ luật tố tụng Dân sự, Điều 51; 54; 56; khoản 1 Điều 59; Điều 81, Điều 82, Điều 83 Luật hôn nhân và Gia đình; điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 của Uỷ ban thường vụ Quốc hội về án phí, lệ phí Tòa án. Xử:

1. Về quan hệ hôn nhân: Cho chị Nguyễn Thị Tr được ly hôn anh Phan Văn H.

2. Về con chung: Giao con chung tên là Phan Văn Thế A, sinh ngày 25/4/2016, Phan Văn Usinh ngày 12/11/2008 cho chị Nguyễn Thị Tr được trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng và giáo dục đến khi con đủ 18 tuổi, trưởng thành.

- Tạm hoãn cấp dưỡng nuôi con chung cho anh Phan Văn Hcho đến khi chị Nguyễn Thị Tr có yêu cầu.

Vì lợi ích mọi mặt của con thì các bên đương sự có quyền xin thay đổi người trực tiếp nuôi con và yêu cầu mức cấp dưỡng nuôi con.

Sau khi ly hôn, người không trực tiếp nuôi con có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở.

4.Về án phí: Chị Nguyễn Thị Tr phải chịu 300.000đ (Ba trăm nghìn đồng) án phí ly hôn sơ thẩm nhưng được khấu trừ vào số tiền tạm ứng án phí là 300.000đ mà chị Tr đã nộp tại chi cục thi hành án dân sự huyện Yên Thành theo biên lai thu tiền số 007488 ngày 20/8/2020.

Nguyên đơn có quyền kháng cáo lên Tòa án nhân dân tỉnh Nghệ An trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Bị đơn vắng mặt có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày niêm yết hoặc nhận bản sao bản án./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

230
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 95/2020/HNGĐ-ST ngày 30/09/2020 về tranh chấp ly hôn, tranh chấp nuôi con

Số hiệu:95/2020/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Yên Thành - Nghệ An
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 30/09/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về