Bản án 95/2019/HNGĐ-PT ngày 19/06/2019 về giải quyết kháng cáo quyền nuôi con chung trong vụ án ly hôn

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ HÀ NỘI

BẢN ÁN 95/2019/HNGĐ-PT NGÀY 19/06/2019 VỀ GIẢI QUYẾT KHÁNG CÁO QUYỀN NUÔI CON CHUNG TRONG VỤ ÁN LY HÔN

Ngày 19-6-2019, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội mở phiên tòa xét xử phúc thẩm vụ án Hôn nhân & Gia đình đã thụ lý số 69/2019/TLPT-HNGĐ ngày 13-5-2019, do Bản án Hôn nhân & Gia đình sơ thẩm số 12/2019/HNGĐ-ST ngày 12-4-2019 của Tòa án nhân dân huyện Ba Vì bị kháng cáo, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 135/2019/QĐXX-PT ngày 03-6-2019, giữa các đương sự:

- Nguyên đơn có kháng cáo: Anh CVL, sinh năm 1987.

- Bị đơn: Chị NTHL, sinh năm 1987.

Cùng HKTT: Thôn Đông Đoài, xã Phú Đông, huyện Ba Vì, TP. Hà Nội. Đều có mặt tại phiên tòa.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Anh CVL và chị NTHL đăng ký kết hôn ngày 11-01-2010 tại UBND xã Phú Đông, huyện Ba Vì, thành phố Hà Nội trên cơ sở tự nguyện. Tình cảm vợ chồng hòa thuận, hạnh phúc và sinh được hai con chung là Chu Thị Trà My, sinh ngày 19-8-2010 và Chu Hoàng Nam, sinh ngày 04-7-2012.

Mâu thuẫn vợ chồng phát sinh từ năm 2014. Chị NTHL đã nhiều lần tự ý bỏ đi về nhà mẹ đẻ và vợ chồng chính thức ly thân từ 2017. Anh CVL khai mâu thuẫn vợ chồng do bất đồng quan điểm trong làm ăn kinh tế. Chị NTHL cho rằng nguyên nhân mâu thuẫn là do anh CVL là người không vững lập trường, không biết phân biệt đúng sai, hay uống rượu rồi về nhà chửi và đánh vợ. Anh CVL và chị NTHL đều nhận thấy tình cảm không còn nên đã thống nhất ly hôn.

Về con chung: Anh CVL đề nghị được trực tiếp nuôi dưỡng, chăm sóc cả hai con chung và không yêu cầu chị NTHL đóng góp tiền cấp dưỡng nuôi con. Lời khai ban đầu chị NTHL có nguyện vọng được nuôi dưỡng con gái Chu Thị Trà My. Sau đó, chị NTHL thay đổi nguyện vọng để xin nuôi con trai Chu Hoàng Nam và không yêu cầu anh CVL đóng góp tiền cấp dưỡng.

Cháu Chu Thị Trà My có bản tự khai ngày 29-1-2019 thể hiện nguyện vọng xin được ở với anh CVL khi bố mẹ ly hôn.

Về tài sản chung, nợ chung, tài sản riêng: Anh CVL và chị NTHL đều xác định không có nên không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Với nội dung như trên, Bản án Hôn nhân & Gia đình sơ thẩm số 12/2019/HNGĐ-ST ngày 12-4-2019 của Tòa án nhân dân huyện Ba Vì đã căn cứ Điều 55, Điều 81, Điều 82; Điều 83 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014; Điều 147, 271, 273 Bộ luật Tố tụng dân sự 2015; Điều 25, khoản 2 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH ngày 30-12-2016 về án phí, lệ phí Tòa án, xử:

- Về quan hệ hôn nhân: Công nhận thuận tình ly hôn giữa anh CVL và chị NTHL.

- Về con chung: Giao cháu Chu Thị Trà My, sinh ngày 19-8-2010 cho anh CVL nuôi dưỡng. Giao cháu Chu Hoàng Nam, sinh ngày 04-7-2012 cho chị NTHL nuôi dưỡng. Anh CVL, chị NTHL nuôi con cho đến khi các cháu tròn 18 tuổi hoặc khi có sự thay đổi khác. Không bên nào phải cấp dưỡng nuôi con. Anh CVL, chị NTHL được quyền qua lại, thăm nom, chăm sóc con chung, không ai được ngăn cản.

- Về tài sản chung, tài sản riêng, nợ chung: Không.

Ngoài ra bản án còn tuyên về án phí và quyền kháng cáo cho các đương sự.

Sau khi Tòa án nhân dân huyện Ba Vì xét xử, anh CVL kháng cáo không đồng ý phần quyết định của Bản án sơ thẩm về phần giao nuôi con chung Chu Hoàng Nam cho chị NTHL. Anh CVL xuất trình Đơn trình bày nguyện vọng đề ngày 14-4-2019 mang tên cháu Chu Hoàng Nam với nội dung xin ở với bố vì được bố yêu thương nhiều hơn, chăm sóc tốt hơn mẹ.

Tại phiên tòa phúc thẩm:

- Chị NTHL và anh CVL đã thỏa thuận như sau:

+ Anh CVL được nuôi dưỡng cả hai con chung.

+ Anh CVL tự nguyện không yêu cầu chị NTHL đóng góp tiền cấp dưỡng nuôi con.

+ Chị NTHL được quyền thăm hỏi, chăm sóc con chung không ai được ngăn cản. Trường hợp anh CVL và gia đình có hành vi cản trở quyền thăm hỏi, chăm sóc con chung thì chị NTHL sẽ xin thay đổi nuôi con.

- Kiểm sát viên phát biểu như sau: Hoạt động tiến hành tố tụng của Tòa án và Hội đồng xét xử phúc thẩm là đúng quy định của pháp luật. Đương sự đã được thực hiện đúng quyền và nghĩa vụ tố tụng. Sự thỏa thuận của đương sự về quyền, nghĩa vụ nuôi con chung tại phiên tòa là tự nguyên, không trái pháp luật nên đề nghị Hội đồng xét xử công nhận.

Căn cứ vào các tài liệu chứng cứ có trong hồ sơ, được thẩm tra công khai tại phiên tòa, căn cứ vào kết quả hòa giải tại phiên tòa, ý kiến của Kiểm sát viên.

NHẬN ĐỊNH CỦA HỘI ĐỒNG XÉT XỬ

[1]. Anh CVL là bị đơn trong vụ án đã kháng cáo và nộp tạm ứng án phí Hôn nhân & Gia đình phúc thẩm nên được coi là kháng cáo hợp lệ.

[2]. Tòa án nhân dân huyện Ba Vì xác định và giải quyết các quan hệ pháp luật về Hôn nhân & Gia đình để giải quyết đúng thẩm quyền cũng như thủ tục tố tụng được quy định tại khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39 Bộ luật Tố tụng dân sự.

Xét nội dung kháng cáo của anh CVL:

[3]. Anh CVL và chị NTHL đều có điều kiện nuôi dưỡng, chăm sóc con chung. Tuy nhiên, việc giao con cho cha hoặc mẹ trực tiếp nuôi dưỡng, giáo dục cần căn cứ vào quyền lợi về mọi mặt của con trẻ. Sau khi xét xử sơ thẩm, anh CVL đã cung cấp cho Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội đơn viết tay của cháu Chu Hoàng Nam thể hiện nguyện vọng ở với bố là anh CVL. Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội đã trực tiếp lấy lời khai của cháu Chu Thị Trà My cũng mong muốn được ở với bố là anh CVL. Thực tế cháu Chu Thị Trà My và Chu Hoàng Nam đã cùng sống với anh CVL từ khi còn nhỏ, thể hiện tình cảm rất gắn bó với nhau. Việc giao cho anh CVL và chị NTHL mỗi người nuôi một con chung sẽ gây bất ổn tâm sinh lý, ảnh hưởng đến sự phát triển của cháu Chu Thị Trà My và cháu Chu Hoàng Nam. Mặt khác, tại phiên tòa phúc thẩm, anh CVL và chị NTHL đã thỏa thuận giải quyết được nội dung kháng cáo. Theo đó, anh CVL sẽ trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng cả hai con chung và không yêu cầu chị NTHL cấp dưỡng nuôi con chung. Chị NTHL được quyền thăm nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con chung. Thấy rằng: Nội dung thỏa thuận của đương sự là tự nguyện, phù hợp với pháp luật và đảm bảo sự ổn định cuộc sống của cháu Chu Thị Trà My và cháu Chu Đức Nam nên Hội đồng xét xử công nhận. Cần chấp nhận kháng cáo của anh CVL để sửa bản án sơ thẩm.

[4]. Về án phí: Anh CVL không phải chịu án phí Hôn nhân & Gia đình phúc thẩm.

Từ nhận định trên.

Căn cứ Điều 300 Bộ luật Tố tụng dân sự, Điều 81, Điều 82, Điều 83 Luật Hôn nhân & Gia đình; khoản 2 Điều 29 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30-12- 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội.

QUYẾT ĐỊNH

1. Chấp nhận kháng cáo của anh CVL. Sửa Bản án Hôn nhân & Gia đình sơ thẩm số 12/2019/HNGĐ-ST ngày 12-4-2019 của Tòa án nhân dân huyện Ba Vì về phần trách nhiệm nuôi dưỡng con chung, cụ thể:

- Giao anh CVL trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục hai con chung là Chu Thị Trà My, sinh ngày 19-8-2010 và Chu Hoàng Nam, sinh ngày 04-7-2012 đến khi đủ 18 tuổi hoặc có sự thay đổi khác theo quy định của pháp luật.

- Ghi nhận sự tự nguyện của anh CVL không yêu cầu chị NTHL đóng góp tiền cấp dưỡng nuôi con chung. Tạm hoãn nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con chung của chị NTHL.

- Chị NTHL có quyền và nghĩa vụ thăm nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con chung không ai được cản trở.

2. Nội dung quyết định khác của bản án sơ thẩm không bị kháng cáo có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị theo trình tự phúc thẩm.

3. Về án phí: Anh CVL không phải chịu án phí Hôn nhân & Gia đình phúc thẩm. Trả lại anh CVL 300.000 đồng đã nộp tạm ứng án phí Hôn nhân & Gia đình phúc thẩm theo biên lai số 9251 ngày 17-4-2019 của Chi cục thi hành án dân sự huyện Ba Vì.

4. Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án./

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

417
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 95/2019/HNGĐ-PT ngày 19/06/2019 về giải quyết kháng cáo quyền nuôi con chung trong vụ án ly hôn

Số hiệu:95/2019/HNGĐ-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Hà Nội
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 19/06/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về