Bản án 95/2017/HSST ngày 09/08/2017 về tội mua bán trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN THỊ XÃ TÂN UYÊN, TỈNH BÌNH DƯƠNG

BẢN ÁN 95/2017/HSST NGÀY 09/08/2017 VỀ TỘI MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Vao ngày 09 tháng 8 năm 2017; tại trụ sở Tòa án nhân dân thị xã Tân Uyên, tỉnh Bình Dương tiến hanh xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 77/2017/HSST ngày 19 tháng 7 năm 2017 theo Quyết đinh đưa vu an ra xet xư số 91/2017/QĐXXST-HS ngay 25 thang 7 năm 2017 đối với bị cáo:

Lê Văn C, sinh năm 1997 tại tinh Kiên Giang; giới tính: Nam; nơi đăng ký hộ khẩu thường trú: Ấp T, xã T, huyện G, tỉnh Kiên Giang; tạm trú: Khu phố 7, phường U, thị xã T, tỉnh Bình Dương; trình độ văn hoá: Lơp 09/12; nghề nghiệp: Không; con ông Lê Văn P, sinh năm 1976 và bà Trần Thị Kim H, sinh năm 1979; có 02 anh em, lớn là bị cáo, nhỏ sinh năm 2001; tiền án, tiền sự: Không; tạm giữ, tạm giam từ ngày 13/02/2017 cho đến nay; có mặt.

- Người bào chữa cho bị cáo Lê Văn C: Ông Sin Thoại K – Luật sư thuộc Công ty Luật TNHH MTV TK; địa chỉ: Số 153, đường D, Phường 7, quận G, Thành phố Hồ Chí Minh; có mặt.

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

1. Ông Triệu Minh D, sinh năm 1998; nơi đăng ký hộ khẩu thường trú: Ấp N, xã N, huyện G, tỉnh Kiên Giang; nơi ở hiện tại: Nhà trọ P thuộc Khu phố 7, phường U, thị xã T, tỉnh Bình Dương; có mặt.

2. Ông Huỳnh Văn T, sinh năm 1990; nơi đăng ký hộ khẩu thường trú: Ấp 5, xã V, huyện V, tỉnh Hậu Giang; nơi ở hiện tại: Khu phố 7, phường U, thị xã T, tỉnh Bình Dương; có mặt.

3. Ông Trương Văn Tr, sinh năm 1975; nơi đăng ký hộ khẩu thường trú: Ấp T, xã T, huyện C, tỉnh Hậu Giang; nơi ở hiện tại: Tổ 3, Khu phố 7, phường U, thị xã T, tỉnh Bình Dương; có mặt.

4. Ông Lê Văn P, sinh năm 1975; nơi đăng ký hộ khẩu thường trú: Ấp T, xã T, huyện G, tỉnh Kiên Giang; nơi ở hiện tại: Khu phố 7, phường U, thị xã T, tỉnh Bình Dương; có mặt.

- Người làm chứng:

1. Ông Nguyễn Trương Dương T, sinh năm 1990; nơi đăng ký hộ khẩu thường trú: Tổ 1, Khu phố 8, phường U, thị xã T, tỉnh Bình Dương; vắng mặt

2. Ông Nguyễn Hoài V, sinh năm 1994; nơi đăng ký hộ khẩu thường trú: Khu phố 6, phường U, thị xã T, tỉnh Bình Dương; vắng mặt

NỘI DUNG VỤ ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên toà và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên toà, Hội đồng xét xử nhận định:

Khoảng 22 giờ 20 phút ngày 13/02/2017, lực lượng tuần tra Công an phường U, thị xã T tiến hành tuần tra an ninh trật tự trên địa bàn phát hiện Lê Văn C điều khiển xe mô tô hiệu Sirius biển số 68G1- 188.78 lưu thông theo hướng từ xã H về phường U chở Triệu Minh D ngồi phía sau không đội nón bảo hiểm nên đã yêu cầu C dừng xe để kiểm tra hành chính. Qua kiểm tra phát hiện trong cốp xe mô tô biên số 68G1- 188.78 do C điều khiển có 01 bịch nylon màu đen bên trong chứa nhiều dụng cụ để sử dụng ma túy nên mời C và D về trụ sở Công an phường U làm việc. Qua kiểm tra, Công an phường U phát hiện 01 vỏ hộp quẹt bằng kim loại màu vàng bên trong có chứa 03 bịch nylon nhỏ được hàn kín chứa chất tinh thể màu trắng và 01 bịch nylon lớn được hàn kín có chữ “Vương Miện” bên trong chứa chất tinh thể màu trắng. C khai nhận đó là ma túy do C mua nhằm tàng trữ để sử dụng và bán cho các đối tượng nghiện ma túy. Công an phường U tiến hành lập biên bản tạm giữ vật chứng và tài sản có liên quan gồm: 01 (một) bịch nylon được hàn kín có chữ “Vương Miện” bên trong có chứa chất tinh thể màu trắng; 03 (ba) bịch nylon nhỏ được hàn kín bên trong có chứa chất tinh thể màu trắng; 01 (một) vỏ hộp quẹt bằng kim loại màu vàng; 07 (bảy) bịch nylon; 01 (một) đoạn ống hút màu trắng dài khoảng 04 cm, một đầu được vạt nhọn, một đầu được hàn kín; 01 (một) ống thủy tinh có một đầu hình tròn và 01 (một) ống hút màu tím, dài khoảng 20cm được gắn vào nắp chai màu đỏ; 01 (một) cái kéo bằng kim loại, màu trắng; 02 (hai) hộp quẹt va 01 (một) xe mô tô hiệu Sirius biển số 68G1-188.78.

Tại Công an phường U, Lê Văn C khai trước khi bị Công an phường U mời về trụ sở làm việc thì C có bán ma túy cho Huỳnh Văn T. Công an phường U mời T về trụ sở làm việc và thu giữ 01 (một) bịch nylon được hàn kín, bên trong chứa chất tinh thể màu trắng. Sau đó, Công an phường U lập hồ sơ ban đầu chuyển cho cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thị xã T xử lý theo thẩm quyền.

Tại Kết luận giám định số 82/MT-PC54 ngày 17/02/2017 của Phòng kỹ thuật hình sự, Công an tỉnh Bình Dương kết luận: Tinh thể màu trắng trong 03 (ba) bịch nylon trọng lượng là 0,1753 gam (M1) và 01 (một) bịch nylon trọng lượng là 0,6640 gam (M2) được hàn kín và niêm phong thu giữ của Lê Văn C có thành phần Methamphetamine.

Tại Kết luận giám định số 83/MT-PC54 ngày 17/02/2017 của Phòng kỹ thuật hình sự, Công an tỉnh Bình Dương kết luận: Tinh thể màu trắng trong 01 (một) bịch nylon trọng lượng là 0,0700 gam được hàn kín và niêm phong thu giữ của Huỳnh Văn T có thành phần Methamphetamine.

Cáo trạng số 81/QĐ-KSĐT ngày 19/6/2017 của Viện kiểm sát nhân dân thị xã Tân Uyên truy tố bị cáo Lê Văn C về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” theo điểm b khoản 2 Điều 194 Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa, đại diện Viện Kiểm sát nhân dân thị xã Tân Uyên giữ nguyên quyết đinh truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử:

- Tuyên bố bị cáo Lê Văn C phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy”;

- Áp dụng Điểm b Khoản 2 Điều 194; Điểm p Khoản 1 Điều 46 cua Bộ luật Hình sự xử phạt bị cáo Lê Văn C từ 07 (bảy) năm đến 07 (bảy) năm 06 (sáu) tháng tù.

- Về xử lý vật chứng và biện pháp tư pháp: Áp dụng Điều 41 Bộ luật Hình sự và Điều 76 Bộ luật tố tụng hình sự, đề nghị Hội đồng xét xử:

+ Đề nghị Hội đồng xét xử tịch thu, tiêu huỷ cac vât chưng liên quan đến viêc pham tôi không còn giá trị sử dụng gồm:

- 01 (một) bì thư đã được niêm phong dán kín có ký hiệu 82/PC54 phía ngoài có chữ ký người bị bắt Lê Văn C, chữ ký cán bộ niêm phong Trần Văn B, chữ ký cán bộ giao mẫu Dương Hữu H, chữ ký người chứng kiến Nguyễn Hoài V, Triệu Minh D, chữ ký cán bộ giám định Nhan Thái H phòng Kỹ thuật hình sự (PC54) Công an tỉnh Bình Dương, chữ ký ông Ngô Hồng P Phó Công an phường U và hình dấu đỏ Công an phường U, thị xã T và hình dấu đỏ niêm phong của phòng KTHS (PC54) Công an Bình Dương, bên trong bì thư có chứa chất Methamphetamine là đối tượng hoàn trả lại sau giám định theo Bản kết luận giám định 82/MT-PC54 ngày 17/02/2017 của Phòng KTHS (PC54) Công an tỉnh Bình Dương.

- 01 (một) bì thư đã được niêm phong dán kín có ký hiệu 83/PC54 phía ngoài có chữ ký người bị bắt Huỳnh Văn T, chữ ký cán bộ niêm phong, cán bộ giao mẫu Dương Hữu H, chữ ký người chứng kiến Nguyễn Trương Dương T, Nguyễn Hoài V, chữ ký cán bộ giám định Nhan Thái H phòng Kỹ thuật hình sự (PC54) Công an tỉnh Bình Dương, chữ ký ông Ngô Hồng P Phó Công an phường U và hình dấu đỏ Công an phường U, thị xã T và hình dấu đỏ niêm phong của phòng KTHS (PC54) Công an Bình Dương, bên trong bì thư có chứa chất Methamphetamine là đối tượng hoàn trả lại sau giám định theo Bản kết luận giám định 83/MT-PC54 ngày 17/02/2017 của Phòng KTHS (PC54) Công an tỉnh Bình Dương;

- 01 (một) vỏ hộp quẹt bằng kim loại màu vàng;

- 06 (sáu) vỏ bọc nylon hở một đầu;

- 01 (một) đoạn ống hút màu trắng dài khoảng 04 cm, một đầu được vạt nhọn, một đầu hàn kín;

- 01 (một) ống thủy tinh có một đầu hình tròn và 01 (một) ống hút màu tím dài khoảng 20cm cả hai được gắn vào nắp chai màu đỏ;

- 01 (một) cái kéo bằng kim loại màu trắng;

- 01 (một) bịch nylon màu đen;

- 02 (hai) hộp quẹt đã qua sử dụng.

+ Đối với xe mô tô nhãn hiệu Sirius biển số 68G1-188.78 do ông Lê Văn P đứng tên đăng ký chủ sở hữu. Cơ quan cảnh sát điều tra đã ban hành Quyết định xử lý vật chứng số 72 ngày 29/5/2017 trả lại cho ông Lê Văn P nên không đề nghị xem xét.

+ Đối với điện thoại di động mà C sử dụng để liên lạc với H mua ma túy, C khai đã làm hư, quá trình điều tra không thể thu hồi điện thoại cũng như thẻ sim nên không đề nghị Hội đồng xét xử xem xét.

+ Đối với số tiền 300.000 đồng (ba trăm nghìn đồng) là tiền thu lợi bất chính nên đề nghị Hội đồng xét xử buộc bị cáo phải nộp lại số tiền nêu trên để sung quỹ Nhà nước.

Quá trình điều tra và tại phiên tòa, Lê Văn C khai: C sử dụng ma túy tư khoảng tháng 8/2015, loại ma túy mà C sử dụng là ma túy tổng hợp (Methamphetamine) do C mua về từ một người phụ nữ tên H. Ngoai ra, Cường con bán cho các đối tượng nghiện ma túy khác để kiếm lời. Khoảng 16 giờ ngày 12/02/2017, C mua ma tuy cua H vơi số tiền 1.500.000 đồng. Sau khi mua đươc ma tuy, C thuê phong nghi tai nhà nghỉ N ở phường U, thị xã T va phân thành 05 phần rồi bỏ vào 05 bịch nylon và hàn kín miệng, cho vào trong 01 vỏ hộp quẹt bằng kim loại màu vàng rồi bỏ vào túi quần của C đang mặc. Sau đó, C trả phòng và điều khiển xe mô tô biên số 68G1-188.78 đi về phòng trọ của C tại khu phố 7, phường U, thị xã T, tỉnh Bình Dương. Đến khoảng 20 giờ 30 cùng ngày, C điều khiển xe mô tô 68G1 – 188.78 đến nhà trọ P ở khu phố 7, phường U, thị xã T chở Triệu Minh D đến phòng bảo vệ của Công ty H tại Khu phố 7, phường U, thị xã T, tỉnh Bình Dương để sử dụng ma túy. Khi đến Công ty H, C và D gặp Huỳnh Văn T là bạn của C đang làm bảo vệ của Công ty. C nói với T cho vào trong phòng bảo vệ để sử dụng ma túy thì T đồng ý. Sau đó, C mở cốp xe mô tô biên số 68G1-188.78 lấy dụng cụ sử dụng ma túy xuống nền gạch của phòng bảo vệ rồi C cung vơi T, D va Trương Văn Tr là bảo vệ của Công ty H cùng sử dụng chung ma túy. Sau khi sử dụng ma túy thì Tr đi ra ngoài để làm nhiệm vụ còn C, T, D ở lại trong phòng. Lúc này, T hỏi mua Cường 300.000 đồng (Ba trăm nghin đồng) ma túy và nói 02-03 ngày sau sẽ trả tiền thì C đồng ý. C lấy trong vỏ hộp quẹt bằng kim loại 01 bịch nylon có chứa ma túy và đưa cho T nhưng Tnói ít và trả lại thi C tiếp tục lấy thêm trong vỏ hộp quẹt 01 bịch nylon khác có chứa ma túy cộng với bịch ny lon chứa ma túy mà C đưa trước đó cho T. Nhưng do D ngồi ở giữa C và T (khoảng cách giữa C và T khoảng 02 mét) nên C đưa 02 bịch ny lon chứa ma túy cho D và nói “đưa cho T”. D cầm lấy và đưa cho T, nhưng T chỉ lấy 01 bịch còn 01 bịch thì đưa cho D để D đưa lại cho C. Sau khi bán ma túy cho T thi C bỏ số ma túy còn lại vào vỏ hộp quẹt rồi bỏ chung vào bịch ny lon đựng dụng cụ sử dụng ma túy và cất vào cốp xe mô tô biên số 68G1- 188.78. Sau đó, C điều khiển xe mô tô biên số 68G1-188.78 chở D đi về phòng trọ của D thì bị Công an phường U kiểm tra và thu giữ như đã nêu trên. Ngoài ra, vào ngày 07/02/2017 tại khu vực gần phòng bảo vệ của Công ty H, C đã bán cho T 01 bịch ma túy với giá 300.000 đồng (Ba trăm nghin đồng).

Bị cáo Lê Văn C thống nhất vơi nôi dung ban Cáo trạng số 81/QĐ-KSĐT ngày 19/6/2017 của Viện kiểm sát nhân dân thị xã T va trinh bay về hành vi phạm tội của mình như đã nêu trên.

Người bào chữa cho bị cáo thống nhất về tôi danh va điều khoan theo nôi dung cao trang truy tố cua Viên kiêm sat va trình bày: Nguyên nhân dẫn đến việc phạm tội của bị cáo là do nhận thức pháp luật còn thấp; bị cáo phạm tội lần đầu; quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo có thái độ thành khẩn khai báo, thể hiện rõ thái độ ăn năn hối cải; ông ngoại của bị cáo được tặng giấy khen vì đã có thành tích cống hiến trong lao động, công tác. Vì vậy, đề nghi Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

Quá trinh điều tra và tại phiên tòa người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan ông Huỳnh Văn T khai: Ông T nghiện ma túy tư tháng 01/2017, loại ma túy mà ông T sử dụng là ma túy tổng hợp (Methamphetamine). Ông T đã 02 lần mua ma túy của C để sử dụng vào các ngày 07/02/2017 và 13/02/2017, mỗi lần mua là 300.000 đồng (Ba trăm nghin đồng) nhưng lần mua ngày 13/02/2017 thì ông T chưa trả tiền cho C và chưa sử dụng ma túy thì bị thu giữ.

Quá trinh điều tra và tại phiên tòa người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan ông Triệu Minh D khai: Vào tối ngày 13/02/2017, ông D cùng ông T, ông Tr va bi cao C sử dụng ma túy (Methamphetamine) tại phòng bảo vệ Công ty H. Nguồn gốc ma túy mà D, T, C, Tr sử dụng là do C cung cấp. Ông D chỉ tham gia sử dụng ma túy, không biết viêc mua ban ma tuy giưa bi cao C va ông T.

Quá trinh điều tra và tại phiên tòa người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan ông Trương Văn Tr khai: Vào tối ngày 13/02/2017 khi đang trực bảo vệ tại Công ty H, đươc bi cao C rủ nên ông Tr cung vơi ông T, ông D va bi cao C sư dung ma tuy tai phòng bảo vệ cua Công ty H, ông Tr không biết viêc mua ban ma tuy giưa bi cao C va ông T.

Quá trình điều tra và tại phiên tòa người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan ông Lê Văn P khai: Xe mô tô nhãn hiệu Sirius biển số 68G1-188.78 do ông Lê Văn P đứng tên đăng ký chủ sở hữu. Ngày 13/02/2017, ông P cho con ruột là Lê Văn C mượn xe mô tô để đi công việc, ông P không biết việc C sử dụng xe vào mục đích mua bán ma túy. Hiện nay ông đã nhận lại xe mô tô biển số 68G1-188.78, không có yêu cầu nào khác.

Quá trình điều tra những người làm chứng ông Nguyễn Trương Dương T và ông Nguyễn Hoài V khai: Ông T và ông V đang công tác tại Công an phường U. Tối ngày 13/02/2017 được sư phân công của Ban chỉ huy Công an phường thì ông T và ông V có tham gia kiêm tra an toàn giao thông. Trong khi tiến hành tuần tra an ninh trật tự trên địa bàn phát hiện Lê Văn C khiển xe mô tô hiệu Sirius biển số 68G1-188.78 lưu thông theo hướng từ xã H về phường U, chở Triệu Minh D ngồi phía sau không đội nón bảo hiểm nên đã yêu cầu C dừng xe để kiểm tra hành chính. Qua kiểm tra phát hiện trong cốp xe mô tô 68G1-188.78 do C điều khiển có 01 bịch nylon màu đen bên trong chứa nhiều dụng cụ để sử dụng ma túy nên mời C và D về trụ sở Công an phường U làm việc.

Trong lời trình bày cuối cùng của bị cáo C: Bị cáo nhận thức được hành vi của minh là pham tôi, chi đề nghi Hôi đồng xet xư xem xet giam nhe hinh phat đê bi cao sơm đươc trơ về nhà lao động giup đơ gia đinh.

NHẬN ĐỊNH CỦA HỘI ĐỒNG XÉT XỬ

[1] Về thủ tục tố tụng: Bi cao thưc hiên hanh vi pham tôi trên đia ban thi xa T, tinh Binh Dương. Cơ quan Canh sát điều tra Công an thị xa T khơi tố vu an, khơi tố bi can đối vơi bị cáo la đung thâm quyền. Về hành vi, quyết đinh tố tung cua Cơ quan điều tra Công an thị xã T, Điều tra viên, Viên kiêm sat nhân dân thi xa T, Kiêm sat viên trong qua trinh điều tra, truy tố đa thưc hiên đung về thâm quyền, trình tư, thu tuc quy đinh của Bô luât Tố tung hinh sư. Qua trinh điều tra va tại phiên toa, bị cao, người bào chữa cho bị cáo, ngươi co quyền lơi, nghia vu liên quan và người làm chứng không co ngươi nao co y kiến hoăc khiếu nai về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hanh tố tung, ngươi tiến hanh tố tung. Do đo, cac hanh vi, quyết định cua cơ quan tiến hanh tố tung, ngươi tiến hanh tố tụng đa thưc hiện đều hợp phap.

 [2] Về tinh tiết đinh tôi, đinh khung hinh phat: Ngày 07/02/2017 và ngày 13/02/2017, tại khu vực Công ty H thuộc Khu phố 7, phường U, thị xã T, tỉnh Bình Dương, bi cao Lê Văn C đã hai lần thực hiện hành vi mua bán trái phép chất ma tuy Methamphetamine cho Huỳnh Văn T. Điều 194 Bộ luật hình sự quy định về tôi “Mua bán trái phép chất ma túy” như sau: “1. Người nào tàng trữ, vận chuyển, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt chất ma túy, thì bị phạt tù từ hai năm đến bảy năm”.

 “2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ bảy năm đến mười lăm năm: a) Có tổ chức; b) Phạm tội nhiều lần”.

Theo quy định tại Điểm 2.3 Điều 2 Thông tư liên tịch số 17/2007/TTLT-BCA-VKSNDTC-TANDTC-BTP ngày 24/12/2007 thì “phạm tội nhiều lần” được hiểu là đã có từ hai lần phạm tội trở lên mà mỗi lần phạm tội có đủ yếu tố cấu thành tội phạm quy định tại Khoản 1 điều luật tương ứng, đồng thời trong số các lần phạm tội đó chưa có lần nào bị truy cưu trách nhiệm hình sự.

Bị cáo Lê Văn C là người đủ năng lực chịu trách nhiệm hình sự, nhận thức rõ hành vi mua bán trái phép chất ma túy là vi phạm pháp luật hình sự nhưng vì mục đích tư lợi nên cố tình thực hiện. Hành vi của bị cáo đã đủ yếu tố cấu thành tội “Mua bán trái phép chất ma túy” được quy định tại Điểm b Khoản 2 Điều 194 Bộ luật hình sự.

Như vây, nôi dung Cáo trạng số 81/QĐ-KSĐT ngày 19/6/2017 của Viện Kiểm sát nhân dân thị xã T truy tố bi cao về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” theo Điểm b Khoản 2 Điều 194 Bộ luật Hình sự cũng như quan điểm luận tội của Kiểm sát viên thực hành quyền công tố tại phiên tòa là có căn cứ, đúng người, đúng tội va đúng pháp luật.

[3] Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bi cao không co tinh tiết tăng năng trách nhiêm hình sư.

[4] Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Qua trinh điều tra và tại phiên tòa bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải nên đươc hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại Điểm p Khoản 1 Điều 46 Bộ luật Hình sự.

[5] Căn cứ quyết định hình phạt: Tội phạm mà bị cáo thực hiện là rất nghiêm trọng, gây nguy hại lớn cho xã hội nhất là đối với tầng lớp thanh thiếu niên. Bị cáo thực hiện hành vi với lỗi cố ý. Tuy nhiên, bị cáo chưa tiền an, tiền sư; thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; co ông ngoại được tặng giấy khen vì có cống hiến trong lao động, công tác. Vì vậy, Hội đồng xét xử thấy cần giảm một phần hình phạt để bị cáo thấy được chính sách khoan hồng của phap luât mà yên tâm cải tạo sớm trở thành công dân có ích cho xã hội. Hôi đồng xet xư thấy mức hình phạt mà đại diện Viện kiểm sát đề nghị áp dụng đối với bị cáo là tương xưng vơi tinh chất, mưc đô của hanh vi pham tôi; đu tac dung giao duc bi cao va răn đe, phong ngưa chung.

Xét lời trình bày của người bào chữa cho bị cáo là có căn cứ nên được Hội đồng xét xử chấp nhận.

[6] Về trách nhiệm dân sự: Viên kiêm sat, bi cao va nhưng ngươi tham gia tố tung trong vu an không yêu cầu nên Hôi đồng xet xư không xem xét.

[7] Về xử lý vật chứng và biện pháp tư pháp: Căn cư vao Điều 41 Bô luât hinh sư va Điều 76 Bộ luât Tố tung hình sư, Hôi đồng xet xư thấy:

- Đối vơi cac vât chưng gồm:

+ 01 (một) bì thư đã được niêm phong dán kín có ký hiệu 82/PC54 phía ngoài có chữ ký người bị bắt Lê Văn C, chữ ký cán bộ niêm phong Trần Văn B, chữ ký cán bộ giao mẫu Dương Hữu H, chữ ký người chứng kiến Nguyễn Hoài V, Triệu Minh D, chữ ký cán bộ giám định Nhan Thái H phòng Kỹ thuật hình sự (PC54) Công an tỉnh Bình Dương, chữ ký ông Ngô Hồng P Phó Công an phường U và hình dấu đỏ Công an phường U, thị xã T và hình dấu đỏ niêm phong của phòng KTHS (PC54) Công an Bình Dương, bên trong bì thư có chứa chất Methamphetamine là đối tượng hoàn trả lại sau giám định theo Bản kết luận giám định 82/MT-PC54 ngày 17/02/2017 của Phòng KTHS (PC54) Công an tỉnh Bình Dương.

+ 01 (một) bì thư đã được niêm phong dán kín có ký hiệu 83/PC54 phía ngoài có chữ ký người bị bắt Huỳnh Văn T, chữ ký cán bộ niêm phong, cán bộ giao mẫu Dương Hữu H, chữ ký người chứng kiến Nguyễn Trương Dương T, Nguyễn Hoài V, chữ ký cán bộ giám định Nhan Thái H phòng Kỹ thuật hình sự (Pc54) Công an tỉnh Bình Dương, chữ ký ông Ngô Hồng P Phó Công an phường U và hình dấu đỏ Công an phường U, thị xã T và hình dấu đỏ niêm phong của phòng KTHS (PC54) Công an Bình Dương, bên trong bì thư có chứa chất Methamphetamine là đối tượng hoàn trả lại sau giám định theo Bản kết luận giám định 83/MT-PC54 ngày 17/02/2017 của Phòng KTHS (PC54) Công an tỉnh Bình Dương;

+ 01 (một) vỏ hộp quẹt bằng kim loại màu vàng;

+ 06 (sáu) vỏ bọc nylon hở một đầu;

+ 01 (một) đoạn ống hút màu trắng dài khoảng 04 cm, một đầu được vạt nhọn, một đầu hàn kín;

+ 01 (một) ống thủy tinh có một đầu hình tròn và 01 (một) ống hút màu tím dài khoảng 20cm cả hai được gắn vào nắp chai màu đỏ;

+ 01 (một) cái kéo bằng kim loại màu trắng;

+ 01 (một) bịch nylon màu đen;

+ 02 (hai) hộp quẹt đã qua sử dụng.

Là công cụ phạm tội không con gia tri sư dung nên tịch thu, tiêu hủy.

- Đối với xe mô tô nhãn hiệu Sirius biển số 68G1-188.78 do ông Lê Văn P đứng tên đăng ký chủ sở hữu, ông P không co lôi khi bi cao dung chiếc xe nêu trên vao viêc pham tôi, Cơ quan cảnh sát điều tra đã ban hành Quyết định xử lý vật chứng số 72 ngày 29/5/2017 trả lại cho ông Lê Văn P là phù hợp quy định của pháp luật nên Hội đồng xét xử không đặt ra xem xét.

- Đối với chiếc điện thoại di động mà C sử dụng để liên lạc với H mua ma túy đa bi hư hong, không thu hồi đươc nên Hội đồng xét xử không đặt ra xem xét.

- Đối với số tiền 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng) bi cao C thu đươc tư viêc ban ma tuy cho ông T là thu lợi bất chính nên Hội đồng xét xử buôc bị cáo phải nộp lại để sung quỹ Nhà nước.

[9] Về kiến nghị: Hội đồng xét xử thấy không có văn bản hành chính hay hành vi hành chính nào vi phạm của cơ quan nhà nước nên không có kiền nghị. Đối với người phụ nữ tên H (không rõ lai lịch, địa chỉ) có hành vi bán ma túy cho C, Hôi đồng xet xư kiến nghị Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thị xã T tiếp tục điều tra, làm rõ để xử lý theo quy đinh cua phap luât.

[10] Về chi phí tố tung: Theo quy đinh tai Điều 99 Bộ luật Tố tụng hình sự; Điểm a Khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội khóa 14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án thi bị cáo Lê Văn C phải nộp an phi hinh sư sơ thâm.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

1. Tuyên bố bị cáo Lê Văn C phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy”;

2. Về hình phạt: Áp dụng Điểm b Khoản 1 Điều 194; Điểm p Khoản 1 Điều 46 cua Bộ luật Hình sự, xử phạt bị cáo Lê Văn C 07 (bảy) năm tù, thời hạn chấp hanh hinh phat tu tinh tư ngay 13/02/2017.

3. Về xử lý vật chứng và biện pháp tư pháp: Áp dụng Điều 41 Bộ luật Hình sự va Điều 76 Bô luật Tố tung hinh sư, tuyên xư:

- Buộc bị cáo Lê Văn C phải nộp số tiền 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng) để sung quỹ Nhà nước.

- Tịch thu, tiêu hủy các vật chứng gồm:

+ 01 (một) bì thư đã được niêm phong dán kín có ký hiệu 82/PC54 phía ngoài có chữ ký người bị bắt Lê Văn C, chữ ký cán bộ niêm phong Trần Văn B, chữ ký cán bộ giao mẫu Dương Hữu H, chữ ký người chứng kiến Nguyễn Hoài V, Triệu Minh D, chữ ký cán bộ giám định Nhan Thái H phòng Kỹ thuật hình sự (PC54) Công an tỉnh Bình Dương, chữ ký ông Ngô Hồng P Phó Công an phường U và hình dấu đỏ Công an phường U, thị xã T và hình dấu đỏ niêm phong của phòng KTHS (PC54) Công an Bình Dương, bên trong bì thư có chứa chất Methamphetamine là đối tượng hoàn trả lại sau giám định theo Bản kết luận giám định 82/MT-PC54 ngày 17/02/2017 của Phòng KTHS (PC54) Công an tỉnh Bình Dương.

+ 01 (một) bì thư đã được niêm phong dán kín có ký hiệu 83/PC54 phía ngoài có chữ ký người bị bắt Huỳnh Văn T, chữ ký cán bộ niêm phong, cán bộ giao mẫu Dương Hữu H, chữ ký người chứng kiến Nguyễn Trương Dương T, Nguyễn Hoài V, chữ ký cán bộ giám định Nhan Thái H phòng Kỹ thuật hình sự (Pc54) Công an tỉnh Bình Dương, chữ ký ông Ngô Hồng P Phó Công an phường U và hình dấu đỏ Công an phường U, thị xã T và hình dấu đỏ niêm phong của phòng KTHS (PC54) Công an Bình Dương, bên trong bì thư có chứa chất Methamphetamine là đối tượng hoàn trả lại sau giám định theo Bản kết luận giám định 83/MT-PC54 ngày 17/02/2017 của Phòng KTHS (PC54) Công an tỉnh Bình Dương;

+ 01 (một) vỏ hộp quẹt bằng kim loại màu vàng;

+ 06 (sáu) vỏ bọc nylon hở một đầu;

+ 01 (một) đoạn ống hút màu trắng dài khoảng 04 cm, một đầu được vạt nhọn, một đầu hàn kín;

+ 01 (một) ống thủy tinh có một đầu hình tròn và 01 (một) ống hút màu tím dài khoảng 20cm cả hai được gắn vào nắp chai màu đỏ;

+ 01 (một) cái kéo bằng kim loại màu trắng;

+ 01 (một) bịch nylon màu đen;

+ 02 (hai) hộp quẹt đã qua sử dụng.

 (Theo Biên bản giao nhận vật chứng ngày 19/6/2017 của Chi cục Thi hành án dân sự thị xã T).

4. Về chi phí tố tung: Áp dụng Điều 99 Bộ luật Tố tụng hình sự; Điểm a Khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội khóa 14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án, tuyên xử: Bị cáo Lê Văn C phải nộp 200.000 đồng (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

5. Về quyền kháng cáo: Bị cáo va người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có mặt được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

214
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 95/2017/HSST ngày 09/08/2017 về tội mua bán trái phép chất ma túy

Số hiệu:95/2017/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân - Bình Dương
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 09/08/2017
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về