TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN TÂN THÀNH, TỈNH BÀ RỊA - VŨNG TÀU
BẢN ÁN 95/2017/HS-ST NGÀY 08/09/2017 VỀ TỘI BẮT NGƯỜI TRÁI PHÁP LUẬT
Ngày 08 tháng 9 năm 2017, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Tân Thành, tỉnh Bà Rịa-Vũng Tàu; Tòa án nhân dân huyện Tân Thành xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 95/2017/TLST-HS ngày 27 tháng 7 năm 2017, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 95/2017/QĐST-HS ngày 25 tháng 8 năm 2017 đối với các bị cáo:
1. Đặng Văn L, tên gọi khác M, sinh năm 1987 tại Bà Rịa-Vũng Tàu; trú tạiấp N, xã M, huyện T, tỉnh Bà Rịa-Vũng Tàu; nghề nghiệp không; trình độ văn hoá 02/12; con ông Đặng Văn T và bà Nguyễn Thị D; bị cáo chung sống như vợ chồng với Nguyễn Thị Kim H có 01 con sinh năm 2008; tiền án: Bản án số 21/2009/HSST ngày 24/02/2009 của Tòa án nhân dân tỉnh Bà Rịa-Vũng Tàu xửphạt 08 năm tù về tội “Cướp tài sản”. Bị bắt tạm giam từ ngày 25/11/2016 trong một vụ án khác.
Hiện bị cáo đang chấp hành hình phạt tù theo bản án số 63/2017/HSST ngày 30/6/2017 của Tòa án nhân dân huyện Tân Thành, tỉnh Bà Rịa-Vũng Tàu (Có mặt).
2. Đoàn Trọng P, tên gọi khác K; sinh năm 1990; trú tại ấp L, xã P, huyện T, tỉnh Bà Rịa -Vũng Tàu; nghề nghiệp không; trình độ văn hoá 12/12; con ông Đoàn Trung Q và bà Đoàn Thị S. Bị bắt tạm giam từ ngày 05/6/2017 trong một vụ án khác (Có mặt).
- Bị hại: Anh Nguyễn Đức T, tên gọi khác B; sinh ngày 07/5/1998. Trú tại ấp B, xã M, huyện T, tỉnh Bà Rịa-Vũng Tàu (Vắng mặt).
NỘI DUNG VỤ ÁN
Qua các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và quá trình xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Tối ngày 23/6/2016, Đặng Văn L, Võ Văn Kim Q, Đoàn Trọng P, Nguyễn Văn Đ cùng các đối tượng Bách, Tuấn, Quyền, Đen, Duy, Tèo (chưa rõ nhân thân, lý lịch) cùng nhau đi nhậu. Trong lúc nhậu, L rủ cả nhóm đi tìm một người tên Phong để đánh trả thù vì Phong có mâu thuẫn với bạn gái của Quyền. Cả nhóm đồng ý điều khiển xe mô tô đi đến thị trấn Phú Mỹ để tìm Phong, khi đi có mangtheo rựa và dao tự chế. Đến khoảng 00 giờ 30 phút ngày 24/6/2016, nhóm của L nhìn thấy anh Nguyễn Đức T đang ngồi ăn tối cùng bạn ở khu phố Q, thị trấn Ph, huyện T, tỉnh Bà Rịa-Vũng Tàu thì dừng xe lại và đi đến chỗ anh T vì anh T biết Phong. Anh T thấy nhóm của L đã bỏ chạy vào nhà vệ sinh trong quán trốn thì bị nhóm của L cầm hung khí đuổi theo khống chế đưa ra ngoài. L nói cả nhóm đưaanh T lên xe chở đến vườn tràm ở ấp T, xã P, huyện T, tỉnh Bà Rịa-Vũng Tàu. Tại đây, Bách tát anh T một cái vào mặt, Quyền dùng chân đạp anh T một cái, L hỏi anh T thông tin về Phong, sau đó chở anh T về khu phố Nà, thị trấn P, huyện T rồi cho anh T xuống xe. Anh T bị thương nhẹ nên từ chối giám định và không có yêu cầu gì.
Đối với Nguyễn Văn Đ sau khi thực hiện hành vi phạm tội đã bỏ trốn khỏi địa phương, Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Tân Thành đã ra quyết định tạm đình chỉ điều tra bị can và ra quyết định truy nã đối với Nguyễn Văn Đ.
Đối với Võ Văn Kim Q đến giai đoạn truy tố thì bỏ trốn khỏi địa phương,Viện kiểm sát nhân dân huyện Tân Thành đã ra quyết định tạm đình chỉ vụ án đối với Q và có công văn đề nghị Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Tân Thành truy nã đối với Quang.
Đối với các đối tượng Bách, Tuấn, Quyền, Đen, Duy, Tèo; Cơ quan cảnh sátđiều tra Công an huyện Tân Thành tiếp tục xác minh làm rõ, khi nào có kết quả sẽxử lý sau.
Bản cáo trạng số 86/KSĐT-TA ngày 21/7/2017 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Tân Thành, tỉnh Bà Rịa-Vũng Tàu đã truy tố Đặng Văn L, Đoàn Trọng P về tội “Bắt người trái pháp luật” theo khoản 1 Điều 123 của Bộ luật hình sự. Đại diện Viện kiểm sát đề nghị Hội đồng xét xử:
Áp dụng khoản 1 Điều 123, điểm g khoản 1 Điều 48; điểm p khoản 1 Điều 46, Điều 33, Điều 51 của Bộ luật hình sự: Xử phạt bị cáo Đặng Văn L từ 09 đến 12 tháng tù về tội “Bắt người trái pháp luật”. Tổng hợp hình phạt 03 năm tù theo bản án số 63/2017/HSST ngày 30/6/2017 của Tòa án nhân dân huyện Tân Thành, buộc bị cáo phải chấp hành hình phạt chung cho cả hai bản án từ 03 năm 09 tháng đến 04 năm tù.
Áp dụng khoản 1 Điều 123, điểm h, p khoản 1 Điều 46, Điều 33 của Bộ luật hình sự: Xử phạt bị cáo Đoàn Trọng P từ 06 đến 09 tháng tù.
Về bồi thường thiệt hại: Không xem xét giải quyết.
Các bị cáo L và P nói lời nói sau cùng xin Hội đồng xét xử giảm nhẹ hìnhphạt.
NHẬN ĐỊNH CỦA HỘI ĐỒNG XÉT XỬ
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:
[1] Vụ án không thuộc trường hợp tạm đình chỉ hoặc trả hồ sơ để điều tra bổ sung. Trong quá trình điều tra, truy tố; Cơ quan điều tra, điều tra viên, Viện kiểm sát, kiểm sát viên đã thực hiện đúng thẩm quyền, các tài liệu, chứng cứ được thu thập đúng trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Bị cáo, bị hại và những người tham gia tố tụng khác không ai có ý kiến hoặc khiếu nại gì về hành vi cũng như quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng và người tiến hành tố tụng. Do đó các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.
[2] Tại phiên tòa, lời khai nhận tội của các bị cáo L và P phù hợp với lời khai của các bị cáo tại cơ quan điều tra và lời khai của bị hại cũng như các tài liệu chứng cứ khác có tại hồ sơ được thẩm tra tại phiên tòa đã xác định: Vào khoảng 00 giờ 30 phút ngày 24/6/2016, vì lý do cá nhân, các bị cáo L và P cùng đồng bọn đã có hành vi bắt anh T từ khu phố Q, thị trấn P, huyện Th, tỉnh Bà Rịa-Vũng Tàu đưa đến ấp T, xã P, huyện T, tỉnh Bà Rịa-Vũng Tàu. Do đó, hành vi của các bị cáo L và P thực hiện đã đủ yếu tố cấu thành tội “Bắt người trái pháp luật” theo khoản 1Điều 123 của Bộ luật hình sự như Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân huyệnTân Thành, tỉnh Bà Rịa Vũng Tàu truy tố là có căn cứ, đúng pháp luật.
Hành vi phạm tội của các bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, trực tiếp xâm phạm đến quyền bất khả xâm phạm về thân thể và tự do cá nhân của anh Toàn, gây ảnh hưởng xấu đến trật tự xã hội tại địa phương. Các bị cáo L và P cùng nhau thực hiện một tội phạm nên các bị cáo là đồng phạm với nhau, trong đó bị cáo L làngười khởi xướng sau đó trực tiếp thực hiện tội phạm còn bị cáo P sau khi được Lrủ rê thì đồng ý ngay cùng đồng bọn bắt giữ anh T. Do đó đối với các bị cáo cần phải xử lý nghiêm để giáo dục riêng và phòng ngừa chung, mức án đối với bị cáo L phải cao và nghiêm khắc hơn mức án đối với bị cáo P.
Về tình tiết tăng nặng: Bị cáo L đã bị kết án về tội “Cướp tài sản”, chưa được xóa án tích thì lại cố ý thực hiện tội phạm nên lần phạm tội này thuộc trường hợp tái phạm. Đây là tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự theo quy định tại điểmg khoản 1 Điều 48 của Bộ luật hình sự.
Về tình tiết giảm nhẹ: Quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa các bị cáo L và P đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải. Đây là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo quy định tại điểm p khoản 1 Điều 46 Bộ luật hình sự. Riêng bị cáo P phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng nên áp dụng thêm tình tiết giảm nhẹ theo quy định tại điểm h khoản 1 Điều 46 của Bộ luật hình sự.
Bị cáo L đang chấp hành hình phạt tù theo bản án số 63/2017/HSST ngày30/6/2017 của Tòa án nhân dân huyện Tân Thành, tỉnh Bà Rịa-Vũng Tàu nên áp dụng Điều 51 Bộ luật hình sự để tổng hợp hình phạt theo quy định chung.
[3] Về bồi thường thiệt hại: Bị hại không có yêu cầu gì nên Hội đồng xét xử không xem xét.
[4] Về án phí: Các bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Tuyên bố các bị cáo Đặng Văn L (M) và Đoàn Trọng P (K) phạm tội “Bắt người trái pháp luật”.
Áp dụng khoản 1 Điều 123; điểm g khoản 1 Điều 48; điểm p khoản 1 Điều 46; Điều 33; Điều 51 của Bộ luật hình sự.
Xử phạt bị cáo Đặng Văn L 01 (một) năm tù về tội “Bắt người trái pháp luật”. Tổng hợp hình phạt 03 (ba) năm tù theo bản án số 63/2017/HSST ngày 30/6/2017 của Tòa án nhân dân huyện Tân Thành, tỉnh Bà Rịa-Vũng Tàu. Bị cáo Đặng Văn L (M) phải chấp hành hình phạt chung cho cả hai bản án là 04 (bốn)năm tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 25/11/2016.
Áp dụng khoản 1 Điều 123; điểm h, p khoản 1 Điều 46; Điều 33 của Bộ luật hình sự.
Xử phạt bị cáo Đoàn Trọng P (K) 09 (chín) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 05/6/2017.
Về án phí hình sự sơ thẩm: Áp dụng Điều 99 Bộ luật tố tụng hình sự; Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội về án phí, lệ phí Tòa án.
Bị cáo Đặng Văn L (M) phải chịu 200.000 đồng (Hai trăm ngàn).
Bị cáo Đoàn Trọng P (K) phải chịu 200.000 đồng (Hai trăm ngàn).
Bị cáo có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Bị hại có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc kể từ ngày bản án được niêm yết./.
Bản án 95/2017/HS-ST ngày 08/09/2017 về tội bắt người trái pháp luật
Số hiệu: | 95/2017/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Thị xã Phú Mỹ - Bà Rịa - Vũng Tàu |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 08/09/2017 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về