Bản án 942/2017/HSPT ngày 26/12/2017 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TOÀ ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ HÀ NỘI

BẢN ÁN 942/2017/HSPT NGÀY 26/12/2017 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 26 tháng 12 năm 2017, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội mở phiên tòa xét xử phúc thẩm vụ án hình sự thụ lý số 922/2017/HSPT ngày 24/11/2017 đối với bị cáo Kiều Việt H do có kháng cáo của bị cáo đối với bản án hình sự sơ thẩm số 206/2017/HSST ngày 17/10/2017 của Tòa án nhân dân quận H, thành phố Hà Nội.

Bị cáo có kháng cáo:

Họ và tên: Kiều Việt H, sinh năm 1979.

ĐKHKTT: Số 412 K, phường H, quận T, thành phố Hà Nội; nơi ở: không cố định; nghề nghiệp: sửa xe máy; trình độ văn hóa: lớp 7/12; quốc tịch: Việt Nam; dân tộc: Kinh; tôn giáo: không; con ông Kiều Việt Đ (đã chết) và bà Ngô Thúy M; có vợ là Trần Thị Lan H và 01 con sinh năm 2005.

Nhân thân:

- Từ năm 1994 đến năm 1999 có 3 tiền sự về hành vi trộm cắp tài sản.

- Bản án số 289/HSST ngày 07/9/1995 Tòa án nhân dân quận Đ, thànhphố Hà Nội xử 6 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”.

- Bản án số 124/HSST ngày 12/4/1996 Tòa án nhân dân quận Đ, thành phố Hà Nội xử 12 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”.

- Bản án số 1343/HSST ngày 29/10/1997 Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội xử 12 năm tù về tội “Tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy”. Bản án số 2242/HSPT ngày 07/11/1998 Tòa án nhân dân tối cao tuyên tha miễn trách nhiệm hình sự cho bị cáo Kiều Việt H.

- Bản án số 281/HSST ngày 10/12/1999 Tòa án nhân dân tỉnh Hà Tây xử 4 năm tù về tội “Trộm cắp tài sản”.

- Bản án số 412/HSPT ngày 21/9/2005 của Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội xử 09 năm tù về tội “Mua bán trái phép chất ma túy”.

- Bản án số 17/HSST ngày 12/01/2017 Tòa án nhân dân quận G, thành phố Hồ Chí Minh xử 09 năm tù về tội “Mua bán trái phép chất ma túy”.

Danh, chỉ bản số 000000149 lập ngày 02/3/2015 tại Công an quận H, thành phố Hà Nội.

Bị bắt tạm giữ từ ngày 25/02/2015 đến ngày 06/3/2015. Hiện bị cáo đang chấp hành án phạt của Bản án số 17/HSST ngày 12/01/2017 của Tòa án nhân dân quận G, thành phố Hồ Chí Minh tại Trại giam Thủ Đức, Tổng cục VIII; bị cáo có mặt tại phiên toà.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo bản cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân quận H và bản án hình sự sơ thẩm của Tòa án nhân dân quận H thì nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 01 giờ ngày 25/02/2015 Tổ công tác đại đội 7 trung đoàn cảnh sát cơ động Công an thành phố Hà Nội làm nhiệm vụ tuần tra, phát hiện Kiều Việt H ngồi ghế phía sau xe taxi BKS 30A-456.82 do anh Phan Văn H (sinh 1979, HKTT: xóm 4 xã X, huyện X, Nam Định) điều khiển tại trước cửa số nhà 615 đường Hồng Hà, phường Chương Dương, Quận Hoàn Kiếm, thành phố Hà Nội có biểu hiện nghi vấn. Tiến hành kiểm tra thu giữ trong túi quần bò phía trước bên phải của H có 01 túi nilon bên trong chứa tinh thể màu trắng, 02 túi nilon chứa chất bột màu trắng, 01 túi nilon chứa 02 viên nén màu trắng và 01 túi nilon chứa chất dẻo màu vàng nghi là ma túy.

Ngoài ra thu giữ của H: 9.500.000 đồng bên trong ví da màu đen; 01 điện thoại di động Nokia 305 màu đen; 01 điện thoại di động Motorola vỏ màu đen;01 điện thoại di động Rolex màu vàng.

Tại bản kết luận giám định số 3371/KLGĐ-PC54 ngày 18/6/2015 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an thành phố Hà Nội kết luận số tang vật thu giữ của H: 01 túi nilon chứa tinh thể màu trắng là Methamphetamine, trọng lượng0,140 gam; 02 túi nilon chứa chất bột màu trắng là Ketamine, trọng lượng 0,960 gam; 02 viên nén màu trắng là MDMA (Ecstasy), trọng lượng 0,460 gam; 01 túinilon chứa chất dẻo màu vàng có thành phần Methamphetamine, MDMA (Ecstasy) và Ketamine, trọng lượng 1,450 gam.

Tại  cơ  quan  điều  tra,  Kiều  Việt  H  khai  nhận:  khoảng  22  giờ  ngày24/02/2015, H đi xe taxi từ Thanh Xuân đến quán Bar Taboo chơi thì có một phụ nữ không quen biết đứng ở khu vực cạnh quán bar mời H mua ma tuý. H đồng ý đưa 2.000.000 đồng, người phụ nữ trên cầm tiền đưa 05 túi nilon chứa ma tuý gồm 02 túi Ketamine, 01 túi ma tuý “đá”, 02 túi thuốc lắc cho H. Sau đó H vào quán bar chơi có lấy 01 viên thuốc lắc ra sử dụng, do sơ ý nên làm rơi 01 túi thuốc lắc vào nước làm thuốc bị ướt dính lại. Đến khoảng 00 giờ ngày25/02/2015 H đi đến phố Mã Mây ăn đêm rồi thuê xe ôtô taxi BKS 30A-436.82 do anh Phan Văn H điều khiển đến khu vực cửa khẩu Phúc Tân. Khi xe đi đến trước cửa số nhà 615 đường Hồng Hà thì bị công an kiểm tra và thu giữ số ma tuý trên của H. Số tiền 9.500.000 đồng và 03 điện thoại thu giữ của H, là tài sản cá nhân của H không sử dụng vào mục đích liên lạc, mua ma túy.

Anh Phan Văn H khai nhận phù hợp với lời khai của Kiều Việt H. AnhPhan Văn H khai: khoảng 01 giờ ngày 25/02/2015, anh lái xe ôtô taxi BKS 30A-436.82 qua đường Hàng Chiếu - Mã Mây thì H đón xe yêu cầu chạy về cửa khẩu Phúc Tân. Xe đi đến trước cửa số nhà 615 đường Hồng Hà thì bị công an dừng xe kiểm tra và thu giữ ma túy trong túi quần của H. Anh Phan Văn H không biết việc H mang theo ma túy trong người.

Về đối tượng bán ma túy cho H, do H khai không biết rõ tên tuổi và địa chỉ nên Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an quận Hoàn Kiếm không có điều kiện xác minh làm rõ.

Cáo trạng số 247/CT-VKS ngày 05/10/2016 của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân quận H đã truy tố Kiều Việt H về tội: Tàng trữ trái phép chất ma túy theo điểm p khoản 2 Điều 194 của Bộ luật Hình sự.

Bản án hình sự sơ thẩm số 206/2017/HSST ngày 17/10/2017 của Tòa án nhân dân quận H, thành phố Hà Nội đã quyết định:

Tuyên bố Kiều Việt H phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

Áp dụng điểm p khoản 2, khoản 5 Điều 194; điểm p khoản 1 Điều 46; Điều 33; Điều 51 của Bộ luật Hình sự

Xử phạt Kiều Việt H 07 năm tù. Tổng hợp hình phạt của Bản án số17/2017/HSST ngày 12/01/2017 là 09 năm tù của Tòa án nhân dân quận G, thành phố Hồ Chí Minh, buộc bị cáo H phải chấp hành hình phạt chung của 02 bản án là 16 năm tù. Bị cáo được trừ thời gian giam giữ tại Công an quận Hoàn Kiếm từ 25/02/2015 đến 06/3/2015. Thời hạn tù tính từ ngày 26/11/2015.

Ngoài ra, bản án sơ thẩm còn tuyên về xử lý vật chứng, án phí và quyềnkháng cáo theo quy định của pháp luật.

Ngày 31/10/2017, bị cáo Kiều Việt H kháng cáo cho rằng mức hình phạt đối với bị cáo là quá nặng.

Tại phiên toà phúc thẩm, bị cáo khai nhận hành vi phạm tội của mình vàđề nghị Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Hà Nội nhận định:

- Đơn kháng cáo trong hạn luật định, hợp lệ về hình thức.

- Xét nội dung kháng cáo thấy rằng:

Căn cứ vào các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và lời khai của bị cáo tại phiên tòa hôm nay có đủ cơ sở kết luận Kiều Việt H đã có hành vi tàng trữ tổng cộng 3,01 gam ma túy ở thể rắn; về nhân thân, có 01 tiền án, thuộc trường hợp tái phạm nguy hiểm. Tòa án cấp sơ thẩm xét xử bị cáo về tội danh và điều luật áp dụng là có căn cứ, mức án 07 năm tù đối với bị cáo là phù hợp. Tại phiên tòa hôm nay, không có tình tiết mới nên không có căn cứ xem xét, giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo, đề nghị Hội đồng xét xử giữ nguyên quyết định của bản án sơ thẩm. Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, không bị kháng nghị tiếp tục có hiệu lực pháp luật.

Căn cứ vào các chứng cứ, tài liệu đã được thẩm tra tại phiên toà phúc thẩm; căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên toà, trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện tài liệu, chứng cứ, ý kiến của Kiểm sát viên và bị cáo,

NHẬN ĐỊNH CỦA HỘI ĐỒNG XÉT XỬ

Đơn kháng cáo của bị cáo Kiều Việt H nộp trong hạn luật định là hợp lệ, được chấp nhận để xem xét theo trình tự phúc thẩm.

Lời khai của bị cáo Kiều Việt H tại phiên toà phúc thẩm phù hợp với lời khai của bị cáo tại phiên tòa sơ thẩm, trong giai đoạn điều tra; phù hợp với biên bản bắt người phạm tội quả tang, kết luận giám định và các tài liệu khác có trong hồ sơ vụ án nên có đủ cơ sở để kết luận:

Khoảng 01 giờ ngày 25/02/2015 tại trước cửa số nhà 615 Hồng Hà, phường Chương Dương, quận Hoàn Kiếm, thành phố Hà Nội, Kiều Việt H đã có hành vi tàng trữ trái phép 01 túi nilon Methamphetamine, 02 túi nilon Ketamine, 02 viên nén màu trắng có thành phần MDMA (Ecstasy), 01 túi nilon chứa chất dẻo màu vàng có thành phần Methamphetamine,  Ketamine  và  MDMA (Ecstasy).

Tại bản Kết luận giám định số 3371/KLGĐ-PC54 ngày 18/6/2015 củaPhòng Kỹ thuật hình sự Công an thành phố Hà Nội kết luận:

- 01 túi nilon chứa tinh thể màu trắng có thành khẩn Methamphetamine, trọng lượng tinh thể: 0,140 gam, hàm lượng Methamphetamine: 71,15%.

- 02 túi nilon chứa chất bột màu trắng có thành phần Ketamine, trọng lượng: 0,960 gam, hàm lượng Ketamine: 54,07%.

- 02 viên nén màu trắng có thành phần MDMA (Ecstasy), trọng lượng:0,460 gam, hàm lượng MDMA: 12,34%.

- 01 túi nilon chứa chất dẻo màu vàng có thành phần Methamphetamine, MDMA (Ecstasy) và Ketamine, trọng lượng: 1,450 gam, trong đó: hàm lượng Methamphetamine: 0,79%; hàm lượng MDMA: 2,71%, hàm lượng Ketamine:2,11%.

Căn cứ Công văn số 234 ngày 17/9/2014 của Tòa án nhân dân tối cao thì trọng lượng ma túy ở thể rắn mà Kiều Việt H đã tàng trữ trái phép phải được xác định theo hàm lượng ma túy. Cụ thể, trọng lượng ma túy ở thể rắn mà Kiều Việt H đã tàng trữ trái phép là: 0,140g x 71,15% + 0,960g x 54,07% + 0,460g x12,34% + 1,450g x (0,79% + 2,71% + 2,11%) = 0,757g.

Về nhân thân, Kiều Việt H có nhân thân xấu, trước khi thực hiện hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy vào ngày 25/01/2015, bị cáo đã 05 lần bị kết án nhưng không phải về tội tàng trữ, vận chuyển trái phép hoặc chiếm đoạt chất ma túy  nên  căn  cứ  mục  II,  tiểu  mục  3.6,  3.7  Thông  tư  liên  tịch  số  17  ngày24/12/2007 của Bộ Công an - Viện Kiểm sát nhân dân tối cao - Tòa án nhân dân tối cao - Bộ Tư pháp, hướng dẫn áp dụng một số quy định tại Chương XVIII “các tội phạm về ma túy” của Bộ luật Hình sự, hành vi tàng trữ 0,757g các chất ma túy khác ở thể rắn của bị cáo Kiều Việt H chưa đến mức phải truy cứu trách nhiệm hình sự. Vì vậy, Hội đồng xét xử phúc thẩm miễn trách nhiệm hình sự cho bị cáo Kiều Việt H.

Số tiền 9.500.000 đồng và 03 điện thoại thu giữ của Kiều Việt H là tài sản cá nhân không liên quan đến hành vi liên lạc, mua bán ma túy, do vậy, cần trả lại Kiều Việt H số tài sản này. Việc Tòa án cấp sơ thẩm tuyên tịch thu tiêu hủy 03 điện thoại và tịch thu sung công 9.500.000 đồng là không đúng, cần rút kinh nghiệm.

Hội đồng xét xử sửa bản án sơ thẩm nên bị cáo không phải chịu án phí hình sự phúc thẩm.

Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, không bị kháng cáo, kháng nghị có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

Vì các lẽ trên,

Căn cứ điểm b khoản 2 Điều 248 của Bộ luật Tố tụng hình sự,

QUYẾT ĐỊNH

1. Sửa bản án sơ thẩm, cụ thể:

Áp dụng Điều 25 Bộ luật Hình sự, miễn trách nhiệm hình sự đối với bị cáo Kiều Việt H về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

2. Về xử lý vật chứng: Trả lại bị cáo số tiền 9.500.000 đồng và 01 điện thoại nhãn hiệu Nokia 305 màu đen đã cũ; 01 điện thoại nhãn hiệu Motorola màu đen đã cũ; 01 điện thoại nhãn hiệu Rolex màu vàng đã cũ.

3. Về án phí: áp dụng Điều 99 của Bộ luật Tố tụng hình sự; Điều 23 Nghị quyết số 326/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án, bị cáo Kiều Việt H không phải nộp án phí hình sự phúc thẩm.

4. Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, không bị kháng cáo, kháng nghị có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

Bản án hình sự phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án 26/12/2017.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

437
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 942/2017/HSPT ngày 26/12/2017 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:942/2017/HSPT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Hà Nội
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 26/12/2017
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về