Bản án 94/2020/HS-ST ngày 21/12/2020 về tội sử dụng tài liệu giả của cơ quan, tổ chức

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN EA H’LEO, TỈNH ĐẮK LẮK

BẢN ÁN 94/2020/HS-ST NGÀY 21/12/2020 VỀ TỘI SỬ DỤNG TÀI LIỆU GIẢ CỦA CƠ QUAN, TỔ CHỨC

Ngày 21 tháng 12 năm 2020 tại Phòng xử án - Toà án nhân dân huyện EaH’Leo xét xử sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số 96/2020/TLST-HS, ngày 25 tháng 11 năm 2020 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 94/2020/QĐXST- HS, ngày 09 tháng 12 năm 2020 đối với bị cáo:

Lê Thị Ngọc S, sinh năm 1984 tại tỉnh Đắk Lắk; Nơi cư trú: thị trấn D, huyện E, tỉnh Đắk Lắk; nghề nghiệp: Làm nông; trình độ văn hóa: 9/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nữ; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Lê Hữu C (đã chết) và bà Nguyễn Thị Châu G, sinh năm 1964; có chồng Đặng Ngọc Q, sinh năm 1980 và có 02 người con, con lớn sinh năm 2009, con nhỏ sinh năm 2018; tiền án, tiền sự: Không.

Bị cáo bị Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Ea H’Leo áp dụng biện pháp cấm đi khỏi nơi cư trú từ ngày 14 tháng 9 năm 2020. Có mặt - Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án:

1. Anh Phạm Hoài Th sinh năm 1994. Địa chỉ: Đường Y, phường 4, quận T, Thành phố Hồ Chí Minh. Vắng mặt

2. Anh Phạm Văn Đ, sinh năm 1989. Địa chỉ: Đường Nh, xã Tân TT, huyện H, Thành phố Hồ Chí Minh.Vắng mặt

3. Anh Nguyễn Tấn L, sinh năm 1994. Địa chỉ: Thôn V, xã Đ, huyện M, tỉnh Quảng Ngãi. Vắng mặt

4. Anh Đặng Ngọc Q, sinh năm 1980. Địa chỉ: thị trấn D, huyện E, tỉnh Đắk Lắk.Vắng mặt

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào khoảng tháng 5 năm 2020, trong quá trình sử dụng mạng xã hội Facebook, Lê Thị Ngọc S nhìn thấy đăng quảng cáo về việc làm giả giấy tờ, tài liệu nhưng không nhớ tên tài khoản. Sau đó, S đã cung cấp thông tin qua phần mềm tin nhắn (Zalo) để thỏa thuận việc làm giả Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền ở hữu nhà ở và tài sản trên đất với giá 5.000.000 đồng. Nội dung tin nhắn thể hiện thông tin về lô đất tại tổ dân phố M, thị trấn D, huyện E, tỉnh Đắk Lắk; lô đất này thuộc quyền sở hữu của anh Đặng Ngọc Q (chồng của S) được thừa kế từ mẹ ruột của mình là bà Nguyễn Thị Ch vào năm 2018. Sau khi thỏa thuận, S chuyển từ tài khoản Ngân hàng TMCP Đ, Phòng giao dịch E qua số tài khoản của đối tượng để làm giả giấy tờ với số tiền 1.000.000 đồng, gọi là tiền đặt cọc. Khoảng một tuần sau, S nhận được Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất giả qua dịch vụ vận chuyển hàng hóa, mang tên Lê Thị Ngọc S, có số BU 982167; số vào sổ: CH 30462, do Ủy ban nhân dân huyện E cấp ngày 29 tháng 5 năm 2015; thường trú tại thị trấn D, huyện E, thửa đất số 462, tờ bản đồ 16, diện tích 628 m2 (đất ở 200 m2 và đất cây lâu năm 428 m2); địa chỉ thửa đất tại thị trấn D, huyện E, tỉnh Đắk Lắk.

Ngày 04 tháng 6 năm 2020, S mang Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất giả này đến Ngân hàng N - Chi nhánh E thế chấp vay số tiền 400.000.000 đồng. Quá trình làm hồ sơ vay vốn, Chi nhánh Văn phòng đăng ký đất đai huyện E phát hiện Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất mà S dùng để thế chấp vay vốn tại Ngân hàng có dấu hiệu làm giả nên đã chuyển toàn bộ hồ sơ vụ việc đến Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Ea H’Leo, đề nghị xử lý.

Tại Kết luận giám định số: 696/KLGĐ- PC09 ngày 14 tháng 8 năm 2020 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Đắk Lắk kết luận: Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền ở hữu nhà ở và tài sản gắn liền trên đất số BU 982167, là giả.

Quá trình điều tra xác định, các đối tượng Phạm Văn Đ, Nguyễn Tấn L và Phạm Hoài Th thường trú tại Thành phố Hồ Chí Minh đã làm giả giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho Lê Thị Ngọc S đã bị Cơ quan Cảnh sát điều tra quận Thanh Khê, thành phố Đà Nẵng khởi tố, điều tra về tội: Làm giả tài liệu của cơ quan, tổ chức.

Về vật chứng: Cơ quan điều tra Công an huyện Ea H’Leo đã thu giữ 02 giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đều có số: BU 982167 mang tên Lê Thị Ngọc S do Chi nhánh Văn phòng đăng ký đất đai huyện E bàn giao và Cơ quan Cảnh sát điều tra quận Thanh Khê, thành phố Đà Nẵng chuyển đến.

Tại Bản cáo trạng số 99/CT-VKS, ngày 24 tháng 11 năm 2020 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Ea H’Leo truy tố để xét xử đối với bị cáo Lê Thị Ngọc S về tội: “Sử dụng tài liệu giả của cơ quan, tổ chức” theo khoản 1 Điều 341 Bộ luật Hình sự.

Tại phần tranh luận, Kiểm sát viên đưa ra các chứng cứ buộc tội và đánh giá tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội và tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của hành vi phạm tội do bị cáo gây ra và giữ nguyên nội dung bản cáo trạng, đồng thời đề nghị Hội đồng xét xử:

Tuyên bố: Bị cáo Lê Thị Ngọc S phạm tội “Sử dụng tài liệu giả của cơ quan, tổ chức”.

Áp dụng khoản 1 Điều 341; các điểm i, s, khoản 1 và khoản 2 Điều 51, Điều 35 Bộ luật Hình sự.

Xử phạt tiền đối với bị cáo Lê Thị Ngọc S từ 30 triệu đồng đến 35 triệu đồng.

Về xử lý vật chứng: Áp dụng 47 Bộ luật Hình sự, Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự: Tiếp tục lưu giữ trong hồ sơ vụ án 02 giấy chứng nhận quyền sử dụng đất giả đều có số: BU 982167 mang tên Lê Thị Ngọc S là vật chứng của vụ án.

Tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến gì về quyết định truy tố của Viện kiểm sát và cũng không tranh luận gì với đại diện Viện kiểm sát.

Bị cáo trình bày lời nói sau cùng: Bị cáo xin Hội đồng xét xử giảm nhẹ cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về tố tụng: Hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện EaH’Leo, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Ea H’Leo, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục, quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về nội dung: Lời khai của bị cáo tại phiên tòa, về cơ bản phù hợp với lời khai của bị cáo tại Cơ quan điều tra, phù hợp với các tài liệu, chứng cứ khác được Cơ quan điều tra thu thập lưu tại hồ sơ vụ án. Như vậy, đã có đủ cơ sở để kết luận: Do cần tiền để làm ăn kinh doanh nên vào khoảng tháng 5 năm 2020 bị cáo đã có hành vi cung cấp thông tin của mình để làm giấy chứng nhận quyền sử dụng đất giả số BU 982167 nhằm mục đích vay vốn Ngân hàng. Do vậy, vào ngày 04 tháng 6 năm 2020 tại Ngân hàng N- Chi nhánh E bị cáo đã có hành vi sử dụng tài liệu giả của cơ quan, tổ chức để thế chấp vay vốn số tiền 400.000.000 đồng, nhưng đã bị Chi nhánh Văn phòng đăng ký đất đai huyện E phát hiện và ngăn chặn.

Tại khoản 1 Điều 341 Bộ luật Hình sự quy định:

“1. Người nào làm giả con dấu, tài liệu hoặc giấy tờ khác của cơ quan, tổ chức hoặc sử dụng con dấu, tài liệu hoặc giấy tờ giả thực hiện hành vi trái pháp luật, thì bị phạt tiền từ 30.000.000 đồng đến 100.000.000 đồng, phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 02 năm” Như vậy, hành vi của bị cáo đã thực hiện nêu trên đủ yếu tố cấu thành tội “Sử dụng tài liệu giả của cơ quan, tổ chức” được quy định tại khoản 1 Điều 341 Bộ luật Hình sự.

Lời luận tội của đại diện Viện kiểm sát tại phiên tòa đối với bị cáo là có căn cứ pháp luật, nên cần chấp nhận.

[3] Xét hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến trật tự quản lý của cơ quan Hành chính Nhà nước, xâm hại đến sự hoạt động bình thường của cơ quan Nhà nước. Vì vậy, Hội đồng xét xử xét thấy cần xử phạt nghiêm nhằm tác dụng trừng trị, đồng thời giáo dục bị cáo thành công dân sống biết tôn trọng pháp luật. Ngoài ra, còn để răn đe, phòng ngừa chung trong xã hội.

[4] Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo đã thành khẩn khai báo; bị cáo phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng; bị cáo có nhân thân tốt, không có tiền án, tiền sự và có nơi cư trú rõ ràng; bị cáo là lao động chính trong gia đình do chồng bị cáo đang phải chấp hành án phạt tù về tội phạm khác. Do đó, cần cho bị cáo hưởng các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được quy định tại các điểm i, s khoản 1 và khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự. Vì vậy, cần xem xét cần xem xét xử phạt bị cáo hình phạt chính là phạt tiền cũng đủ tác dụng răn đe giáo dục bị cáo.

[5] Đối với Phạm Văn Đ, Nguyễn Tấn L và Phạm Hoài Th đã làm giả giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho bị cáo đã bị Cơ quan Cảnh sát điều tra Quận Thanh Khê, thành phố Đà Nẵng khởi tố, điều tra về tội: Làm giả tài liệu của cơ quan, tổ chức ở một vụ án khác.

[6] Về xử lý vật chứng: Tiếp tục lưu giữ trong hồ sơ vụ án 02 giấy chứng nhận quyền sử dụng đất giả đều có số: BU 982167 mang tên Lê Thị Ngọc S là vật chứng của vụ án.

[7] Về án phí: Cần buộc bị cáo phải chịu án phí Hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố: Bị cáo Lê Thị Ngọc S phạm tội “Sử dụng tài liệu giả của cơ quan, tổ chức”.

Căn cứ vào khoản 1 Điều 341, các điểm i, s khoản 1 và khoản 2 Điều 51, Điều 35 Bộ luật Hình sự.

Phạt tiền: 35.000.000 (Ba mươi lăm triệu đồng) đối với bị cáo Lê Thị Ngọc S để sung quỹ nhà nước. Bị cáo có nghĩa vụ nộp số tiền phạt nêu trên trong thời hạn 07 (Bảy) tháng, mỗi tháng phải nộp 5.000.000 (Năm triệu) đồng.

Về xử lý vật chứng: Căn cứ vào Điều 47 Bộ luật Hình sự, Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự: Tiếp tục lưu giữ trong hồ sơ vụ án 02 giấy chứng nhận quyền sử dụng đất giả đều có số: BU 982167 mang tên Lê Thị Ngọc S là vật chứng của vụ án.

Về án phí: Căn cứ vào khoản 2 Điều 136 của Bộ luật tố tụng hình sự; điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Bị cáo Lê Thị Ngọc S phải chịu 200.000 (Hai trăm nghìn) đồng án phí Hình sự sơ thẩm.

Về quyền kháng cáo: Bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

274
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 94/2020/HS-ST ngày 21/12/2020 về tội sử dụng tài liệu giả của cơ quan, tổ chức

Số hiệu:94/2020/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Ea H'leo - Đăk Lăk
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 21/12/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về