Bản án 94/2018/HS-PT ngày 08/03/2018 về tội trộm cắp tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

BẢN ÁN 94/2018/HS-PT NGÀY 08/03/2018 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 8 tháng 3 năm 2018, tại trụ sở Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh, xét xử phúc thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 38/2018/TLPT-HS ngày 17/01/2018 đối với bị cáo Vũ Xuân L do có kháng cáo của bị cáo đối với bản án hình sự sơ thẩm số 138/2017/HSST ngày 14/12/2017 của Tòa án nhân dân Quận X, Thành phố Hồ Chí Minh.

Bị cáo có kháng cáo: Vũ Xuân L; sinh năm 1978 tại Thái Bình; thường trú: tổ X, phường Tân Y, thành phố Thái Bình, tỉnh Thái Bình; chỗ ở: khu phố Tây Z, phường Đông H, thị xã Dĩ A, tỉnh Bình Dương; nghề nghiệp: chạy xe ôm; trình độ văn hóa: 12/12; dân tộc: Kinh; giới tính: nam; tôn giáo: không; quốc tịch: Việt Nam; con ông: Vũ Xuân C và bà: Nguyễn Thị T; có vợ tên Lê Thị N và 02 con, lớn sinh năm 2001 nhỏ sinh năm 2015; tiền án, tiền sự: không

Nhân thân:

- Ngày 12/9/2002 bị Tòa án nhân dân Quận X, Thành phố Hồ Chí Minh xử phạt 01 năm 03 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”

- Ngày 11/6/2004 bị Tòa án nhân dân Quận 7, Thành phố Hồ Chí Minh xử phạt 02 năm 06 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”

- Ngày 21/9/2007 bị Tòa án nhân dân Quận 7, Thành phố Hồ Chí Minh xử phạt 03 năm tù về tội “Trộm cắp tài sản”.

- Ngày 09/3/2010 bị Tòa án nhân dân Quận X, Thành phố Hồ Chí Minh xử phạt 03 năm 06 tháng tù về tội “Tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có”. Tạm giam từ ngày 11/9/2017 (có mặt)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào khoảng 04 giờ 00 phút ngày 11/9/2017 chị Phan Ngọc Kim Đ đang ngủ trên gác phòng ở tổ B, khu phố 5, phường Phước Long D, Quận X, Thành phố Hồ Chí Minh thì nghe thấy tiếng động, chị Đ nhìn ra cửa sổ phát hiện Vũ Xuân L đang lén lút mở cửa sổ phòng, dùng ống nhựa dài khoảng 02 mét, đầu ống buộc khẩu trang có dính keo đưa qua cửa sổ câu số tiền 2.000.000 đồng đang để trên bàn. Chị Đ tri hô nhưng Lâm vẫn tiếp tục câu hết số tiền trên bàn. Khi nghe tiếng chị Đ tri hô thì anh Đào Văn R và anh Đào Văn V ở phòng trọ kế bên chạy ra thấy L đang cầm ống nước nhựa vứt xuống nền xi măng rồi đẩy xe mô tô Yamaha Sirius biển số 17B9- 118.83 ra khỏi phòng trọ. Lúc này chị Đ chạy đến cùng anh R và anh V bắt quả tang L cùng tang vật giao cho Công an phường Phước Long B, Quận X, Thành phố Hồ Chí Minh xử lý. Trong lúc khống chế L đã quăng một hộp keo dính chuột vào bụi cỏ gần đó. Số tiền L chiếm đoạt của chị Đ là 2.000.000 đồng.

Tại bản án hình sự sơ thẩm số 138/2017/HSST ngày 14/12/2017 của Tòa án nhân dân Quận X, Thành phố Hồ Chí Minh đã quyết định:

Tuyên bố bị cáo Vũ Xuân L phạm tội “Trộm cắp tài sản”.

Áp dụng khoản 1 Điều 138; điểm g khoản 1 Điều 46 của Bộ luật hình sự: Xử phạt: Vũ Xuân L 01 (một) năm tù.

Thời hạn tù tính từ ngày 12/9/2017.

Ngoài ra Tòa án cấp sơ thẩm còn xử lý vật chứng, án phí và quyền kháng cáo theo luật định.

Sau khi xét xử sơ thẩm, ngày 26/12/2017 bị cáo Vũ Xuân L làm đơn kháng cáo với nội dung xin giảm nhẹ hình phạt. Đại diện Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh sau khi phân tích tính chất, mức độ hành vi phạm tội, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, kháng cáo của bị cáo Vũ Xuân L trong hạn luật định đã đề nghị Hội đồng xét xử xử phạt bị cáo L từ 06 tháng đến 09 tháng tù giam.

Tại phiên tòa phúc thẩm, bị cáo Vũ Xuân L khai nhận hành vi phạm tội phù hợp với bản án sơ thẩm đã nêu và đề nghị Hội đồng xét xử phúc thẩm giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan cảnh sát điều tra - Công an Quận X, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân Quận X, Kiểm sát viên, các quyết định của bản án sơ thẩm trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng thực hiện hợp pháp.

[2] Vào khoảng 04 giờ 00 phút ngày 11/9/2017 tại phòng trọ ở tổ B, khu phố 5, phường Phước Long D, Quận X, Thành phố Hồ Chí Minh, Vũ Xuân L đã có hành vi lén lút chiếm đoạt số tiền 2.000.000 đồng của chị Đ đồng để trên bàn. Với hành vi nêu trên, Tòa án cấp sơ thẩm đã xét xử bị cáo L về tội “Trộm cắp tài sản” theo Điều 138 của Bộ luật hình sự năm 1999, sửa đổi bổ sung năm 2009 là đúng người, đúng tội.

Bị cáo Vũ Xuân L bị bắt quả tang khi đang chiếm đoạt số tiền 2.000.000 đồng của chị Đ nên Tòa án cấp sơ thẩm đã áp dụng khoản 1 Điều 138 của Bộ luật hình sự năm 1999, sửa đổi bổ sung năm 2009 để xử phạt bị cáo L về tội “Trộm cắp tài sản” là phù hợp với quy định pháp luật.

Theo hướng dẫn tại Nghị quyết 41/2017/QH14 ngày 20/6/2017 của Quốc Hội thì Hội đồng xét xử áp dụng Bộ luật hình sự năm 2015, được sửa đổi bổ sung năm 2017 có hiệu lực thi hành từ ngày 01/01/2018 để xem xét đối với bị cáo Vũ Xuân L.

[3] Hội đồng xét xử nhận thấy: Tòa án cấp sơ thẩm đã xem xét tình tiết giảm nhẹ như tài sản đã được thu hồi và trả lại cho bị hại để áp dụng điểm g khoản 1 Điều 46 của Bộ luật hình sự năm 1999, sửa đổi bổ sung năm 2009 là có căn cứ. Bị cáo Lâm có nhân thân xấu, đã bị xét xử 04 lần về tội thuộc nhóm tội “Xâm phạm sở hữu”. Tại Cơ quan cảnh sát điều tra và tại phiên tòa sơ thẩm, bị cáo Lâm không thừa nhận hành vi phạm tội của mình. Tuy nhiên tại phiên tòa phúc thẩm, bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải nên Hội đồng xét xử xem xét áp dụng thêm điểm p khoản 1 Điều 46 của Bộ luật hình sự năm 1999, sửa đổi bổ sung năm 2009 cho bị cáo. Mức án mà Tòa án cấp sơ thẩm đã tuyên là có phần nghiêm khắc so với tính chất, mức độ nguy hiểm hành vi phạm tội cũng như nhân thân của bị cáo.

Quan điểm của đại diện Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh đề nghị giảm nhẹ hình phạt đối với Vũ Xuân L là phù hợp; Hội đồng xét xử thấy có căn cứ để chấp nhận kháng cáo của bị cáo L.

Căn cứ vào Biên bản bắt người phạm tội quả tang thì bị cáo Vũ Xuân L bị bắt tạm giam vào ngày 11/9/2017 chứ không phải ngày 12/9/2017, Tòa án cấp sơ thẩm có sai sót nên cần rút kinh nghiệm.

[4] Do đó, Hội đồng xét xử chấp nhận đề nghị của Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh giảm nhẹ hình phạt đối với Vũ Xuân L và chấp nhận kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt của bị cáo.

[5] Bị cáo Vũ Xuân L không phải chịu án phí hình sự phúc thẩm. Vì các lẽ trên,


QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào điểm b khoản 1 Điều 355; điểm c khoản 2 Điều 357 của Bộ luật tố tụng hình sự:

Chấp nhận kháng cáo của bị cáo Vũ Xuân L; sửa bản án sơ thẩm. Tuyên bố Vũ Xuân L phạm tội “Trộm cắp tài sản”.

Áp dụng Điều 7; khoản 1 Điều 173 của Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017; điểm g, p khoản 1 Điều 46 của Bộ luật hình sự năm 1999, sửa đổi bổ sung năm 2009:

Xử phạt: Vũ Xuân L 09 (chín) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày 11/9/2017.

*Áp dụng Điều 135; khoản 2 Điều 136 của Bộ luật tố tụng hình sự; Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội: bị cáo Vũ Xuân L không phải nộp án phí hình sự phúc thẩm.

Các quyết định khác của bản án hình sự sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật, kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

Bản án phúc thẩm có hiệu lực kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

253
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 94/2018/HS-PT ngày 08/03/2018 về tội trộm cắp tài sản

Số hiệu:94/2018/HS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Hồ Chí Minh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 08/03/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về