Bản án 93/2021/HS-ST ngày 17/09/2021 về tội trộm cắp tài sản

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN ML, TỈNH SƠN LA

BẢN ÁN 93/2021/HS-ST NGÀY 17/09/2021 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 17 tháng 9 năm 2021, tại trụ sở Toà án nhân dân huyện ML, tỉnh Sơn La xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 95/2021/TLST-HS ngày 18 tháng 8 năm 2021, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 99/2021/ QĐXXST-HS ngày 07 tháng 9 năm 2021 đối với bị cáo:

Họ và tên: Quàng Văn T, sinh ngày 12/10/1999, tại NC, ML, Sơn La; Nơi ĐKHKTT: Bản KV, xã NC, huyện ML, tỉnh Sơn La; Nghề nghiệp: Trồng trọt; Trình độ văn hoá: 9/12; Dân tộc: Thái; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Đảng, đoàn thể: Không; Con ông Quàng Văn P, sinh năm 1980 và con bà Tòng Thị Đ, sinh năm 1977; có vợ là Vì Thị T, sinh năm 2000 và có 02 con, con lớn nhất sinh năm 2018, con nhỏ nhất sinh năm 2020; Tiền án, tiền sự: Không; Nhân thân: Chưa có án tích hoặc xử lý, xử phạt vi phạm hành chính khác; Bị cáo bị bắt tạm giam giữ từ ngày 11/7/2021; Bị cáo có mặt tại phiên toà.

- Người bị hại:

Ông Lèo Văn T, sinh năm 1986, địa chỉ: Bản P, xã NC, huyện ML, tỉnh Sơn La.

Có đề nghị xử vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Bị cáo Quàng Văn T bị Viện kiểm sát nhân dân huyện ML truy tố về hành vi phạm tội như sau:

Khong 17 giờ 00 phút, ngày 22/3/2021 Tòng Văn H đến rủ Quàng Văn T đi tìm tài sản trộm cắp. Tòng Văn H chuẩn bị một chiếc kìm sắt, đi xe máy nhãn hiệu Honda Dream không biển kiểm soát đèo Quàng Văn T đến bản P, xã NC, huyện ML, tỉnh Sơn La, khi thấy một nhà không có người trông coi, Tòng Văn H dừng xe bảo Quàng Văn T ở ngoài canh, Tòng Văn H dùng kìm mang theo phá khóa cửa vào trong nhà lấy 01 chiếc tivi nhãn hiệu TCL, màn hình 49inch và 01 chiếc điều khiển tivi, mang ra đưa cho Quàng Văn T ôm. Hai người chở tivi đến nhà Lò Văn C, sinh năm 1994, ở bản KV, xã NC, huyện ML, tỉnh Sơn La. Khi mua bán hai bên trao đổi nói cho Lò Văn C biết rõ là do trộm cắp mà có, sau đó hai bên thỏa thuận giá là 3.500.000 đồng, đưa trước 500.000 đồng. Ngày hôm sau H và T đến lấy nốt số tiền 3.000.000 đồng và chia nhau mỗi người 1.750.000 đồng.

Người bị hại ông Lèo Văn T, sinh năm 1986, địa chỉ: Bản P, xã NC, huyện ML, tỉnh Sơn La có đơn trình báo Công an về việc bị mất tài sản là 01 chiếc tivi nhãn hiệu TCL, màn hình 49inch và 01 chiếc điều khiển tivi.

Vật chứng thu giữ:

01 chiếc tivi nhãn hiệu TCL, màn hình 49inch và 01 chiếc điều khiển tivi, đều màu đen, cũ qua sử dụng.

01 chiếc kìm được làm bằng kim loại, tay cầm bằng cao su màu đỏ-đen. In chữ YCU-II, chiều dài 18,5cm, kìm cũ.

Ngày 02/4/2021 Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện ML đã ban hành yêu cầu định giá tài sản số 08 đối với 01 chiếc tivi nhãn hiệu TCL, màn hình 49inch và 01 chiếc điều khiển tivi, đều màu đen, cũ qua sử dụng;

Tại kết luận định giá tài sản số 08 ngày 05/4/2021 của Hội đồng định giá tài sản huyện ML kết luận: 01 chiếc tivi nhãn hiệu TCL, màn hình 49inch màu đen, đã qua sử dụng có trị giá 6.800.000 đồng; 01 chiếc điều khiển tivi màu đen, cũ qua sử dụng có giá trị 80.000 đồng; tổng cộng 6.880.000 đồng.

Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo, người bị hại không có ý kiến hay khiếu nại gì, nhất trí với kết luận của Hội đồng định giá.

Bản cáo trạng số 64/CT-VKS-ML ngày 16/8/2021 của Viện kiểm sát nhân dân huyện ML truy tố bị cáo Quàng Văn T về tội “ Trộm cắp tài sản”, theo khoản 1 Điều 173 của Bộ luật Hình sự.

Tại phiên toà, đại diện Viện kiểm sát giữ quyền công tố vẫn giữ nguyên quan điểm truy tố bị cáo Quàng Văn T đủ yếu tố cấu thành tội “Trộm cắp tài sản”.

Đề nghị Hội đồng xét xử: Tuyên bố bị cáo Quàng Văn T phạm tội “Trộm cắp tài sản”. Căn cứ khoản 1 Điều 173; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 17; Điều 58; Điều 38 Bộ luật hình sự: Xử phạt Quàng Văn T từ 16 tháng đến 20 tháng tù giam; Không áp dụng hình phạt bổ sung - phạt tiền đối với bị cáo do bị cáo không có tài sản.

Đối với số tiền 1.750.000 đồng do mua bán tài sản trộm cắp mà có, bị cáo Quàng Văn T đã chi tiêu hết, cần buộc bị cáo truy thu nộp ngân sách Nhà Nước.

Về trách nhiệm dân sự: Quá trình điều tra và tại đơn xin xét xử vắng mặt người bị hại đã nhận lại đủ tài sản, không yêu cầu bị cáo Quàng Văn T bồi thường thêm. Đề nghị chấp nhận.

Về án phí: Căn cứ điểm đ khoản 1 Điều 12 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 quy định về án phí và lệ phí Toà án: Đề nghị miễn nộp tiền tạm ứng án phí sơ thẩm cho bị cáo Quàng Văn T.

Đối với Tòng Văn H và Lò Văn C, hành vi phạm tội đã được xét xử tại Bản án số 82/2021/HS-ST ngày 02/8/2021 của Tòa án nhân dân huyện ML.

Trước đó khoảng 22 giờ ngày 20/3/2021 Quàng Văn T dùng xe máy HONDA RSX, biển kiểm soát 26L1-024.75 (là xe của ông Quàng Văn P, bố của Quàng Văn T) chở Tòng Văn H đến nhà văn hóa bản MC, xã NC, huyện ML. Thấy không có ai trông coi nên T ngồi ngoài cảnh giới còn H cậy cửa nhà văn hóa lấy trộm 01 chiếc tivi nhãn hiệu TCL, màn hình 32inch, màu đen, cũ qua sử dụng. Sau đó H và T chở tivi đến nhà bà Cầm Thị M (sinh năm 1963, ở bản KV, xã NC, huyện ML, tỉnh Sơn La). Khi mua bán hai bên trao đổi nói cho Cầm Thị M biết rõ là do trộm cắp mà có, sau đó hai bên thỏa thuận giá là 1.500.000 đồng đưa trước 500.000 đồng. Ngày hôm sau hai người đến lấy nốt số tiền 1.000.000 đồng, sau khi được tiền chia nhau mỗi người 750.000 đồng.

Đối với 01 chiếc tivi nhãn hiệu TCL, màn hình 32inch, màu đen, cũ qua sử dụng được định giá là 500.000 đồng và đã được Cơ quan điều tra trả lại cho Cộng đồng bản MC, xã NC, huyện ML, tỉnh Sơn La.

Đối với chiếc xe máy HONDA RSX, biển kiểm soát 26L1-024.75 đã được Cơ quan điều tra trả lại cho ông Quàng Văn P.

Cơ quan Điều tra Công an huyện ML và Viện kiểm sát nhân dân huyện ML xác định hành vi trộm cắp 01 chiếc tivi nhãn hiệu TCL, màn hình 32inch, màu đen, cũ qua sử dụng được định giá là 500.000 đồng của Quàng Văn T và Tòng Văn H không cấu thành tội trộm cắp, đồng thời bà Cầm Thị M là người biết rõ tài sản do người khác phạm tội mà có cũng không phạm tội, mà chỉ vi phạm hành chính nên đã ra quyết định xử phạt hành chính đối với Cầm Thị M.

Bị cáo Quàng Văn T không có ý kiến tranh luận.

Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa Kiểm sát viên giữ nguyên quyết định truy tố, bị cáo nhất trí với quyết định truy tố của Viện kiểm sát.

Lời nói sau cùng của bị cáo xin được giảm nhẹ hình phạt và xin miễn nộp tiền án phí.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện ML; Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện ML; Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Bị cáo, người bị hại không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về tố tụng: Người bị hại Lèo Văn T vắng mặt nhưng đã có lời khai trong hồ sơ và được công bố tại phiên tòa, có đơn đề nghị xét xử vắng mặt, việc vắng mặt không gây trở ngại cho việc giải quyết vụ án nên căn cứ Điều 292 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 quyết định xét xử vắng mặt người bị hại.

Việc Cơ quan Điều tra Công an huyện ML và Viện kiểm sát nhân dân huyện ML xác định hành vi trộm cắp 01 chiếc tivi nhãn hiệu TCL, màn hình 32inch, màu đen, cũ qua sử dụng được định giá 500.000 đồng của Quàng Văn T và Tòng Văn H không cấu thành tội trộm cắp tài sản, đồng thời bà Cầm Thị M là người đã mua chiếc tivi, biết rõ tài sản do Quàng Văn T và Tòng Văn H trộm cắp mà có cũng không phạm tội, mà họ chỉ vi phạm hành chính nên đã ra quyết định xử phạt hành chính Cầm Thị M đã được nhận định trong Bản án số 82/2021/HS-ST ngày 02/8/2021 của Tòa án nhân dân huyện ML (bản án đã có hiệu lực pháp luật), vì vậy Hội đồng xét xử không xem xét lại. Do đó không xác định tư cách tham gia tố tụng đối với Cộng đồng bản MC, xã NC, huyện ML, tỉnh Sơn La; ông Quàng Văn P, bà Cầm Thị M.

[3] Về tội danh: Tại phiên tòa bị cáo Quàng Văn T thừa nhận: Khoảng 17 giờ 00 phút ngày 22/3/2021 Quàng Văn T đã cùng Tòng Văn H lén lút, bí mật chiếm đoạt tài sản là 01 chiếc tivi nhãn hiệu TCL, màn hình 49inch, màu đen, cũ qua sử dụng có giá trị là 6.800.000 đồng; 01 chiếc điều khiển tivi, màu đen, cũ qua sử dụng có giá trị là 80.000 đồng. Tổng cộng là 6.880.000 đồng của anh Lèo Văn T.

Xét lời khai nhận tội của bị cáo tại phiên tòa hoàn toàn phù hợp với lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra, phù hợp với kết quả điều tra được chứng minh như sau: Đơn trình báo, biên bản khám nghiệm hiện trường, biên bản sự việc, vật chứng thu giữ.

Như vậy có đủ cơ sở kết luận: Hành vi lén lút chiếm đoạt tài sản trị giá 6.880.000 đồng của bị cáo Quàng Văn T đã phạm vào tội Trộm cắp tài sản, được quy định tại Điều 173 của Bộ luật Hình sự.

Xét tính chất, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo: Bị cáo là người có đầy đủ năng lực trách nhiệm hình sự, nhận thức được quyền sở hữu tài sản của công dân được pháp luật bảo vệ, nhưng do nghiện ma túy, lười lao động, hám lời bất chính nên bị cáo đã thực hiện tội phạm với lỗi cố ý. Hành vi thực hiện tội phạm của bị cáo tuy thuộc trường hợp ít nghiêm trọng nhưng đã xâm phạm đến lợi ích hợp pháp của công dân, ảnh hưởng xấu đến tình hình an ninh trật tự và an toàn xã hội ở địa phương, gây bất bình, hoang mang trong quần chúng.

[4] Về tính chất đồng phạm: Bị cáo Tòng Văn H là người khởi xướng, rủ rê việc thực hiện hành vi trộm cắp, đồng thời là người thực hành tích cực, trực tiếp dùng kìm cạy cửa để lấy trộm ti vi. Bị cáo Quàng Văn T là người canh gác cho bị cáo H, cùng bị cáo Hoài đi tìm người tiêu thụ tài sản trộm cắp, đóng vai trò người giúp sức. Các bị cáo đồng phạm giản đơn, cần căn cứ Điều 17, Điều 58 Bộ luật Hình sự để quyết định hình phạt cho các bị cáo.

[5] Về tình tiết tăng nặng, tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và nhân thân:

Về tình tiết tăng nặng: Bị cáo phạm tội không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.

Về tình tiết giảm nhẹ: Hội đồng xét xử cần xem xét chấp nhận đề nghị của đại diện Viện kiểm sát, áp dụng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo theo điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự, vì sau khi phạm tội bị cáo đã thành khẩn khai báo.

Về nhân thân: Bị cáo nghiện chất ma túy, quá trình sinh sống tại địa phương chưa chấp hành nghiêm túc quy định, chính sách pháp luật của Nhà nước, có biểu hiện tụ tập sử dụng trái phép chất ma túy. Sau khi phạm tội bị cáo đã bỏ trốn và bị bắt theo Quyết định truy nã của cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện ML.

[6] Về hình phạt Về hình phạt chính: Tòa cần xem xét cân nhắc xử phạt bị cáo mức hình phạt phù hợp, tương xứng với tính chất, mức độ hành vi thực hiện tội phạm của bị cáo. Việc cách ly bị cáo một thời gian là cần thiết, có như vậy mới có thể đảm bảo được điều kiện và thời gian để bị cáo cải tạo, giáo dục trở thành người tốt có ích cho xã hội và gia đình, đồng thời nhằm răn đe phòng ngừa giáo dục chung.

Về hình phạt bổ sung: Khoản 5 Điều 173 Bộ luật Hình sự quy định “Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 500.000.000 đồng”. Xét điều kiện, hoàn cảnh của bị cáo, bị cáo có hoàn cảnh khó khăn về kinh tế, thu nhập không ổn định, tài sản không có gì giá trị lớn, bị cáo không có khả năng thi hành, Toà cần xem xét chấp nhận lời tự bào chữa của bị cáo Quàng Văn T không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

[7] Đối với Tòng Văn H và Lò Văn C, hành vi phạm tội đã được xét xử tại Bản án số 82/2021/HS-ST ngày 02/8/2021 của Tòa án nhân dân huyện ML (Bản án đã có hiệu lực pháp luật).

[8] Về vật chứng của vụ án: 01 chiếc tivi nhãn hiệu TCL, màn hình 49inch và 01 chiếc điều khiển tivi, đều màu đen, cũ qua sử dụng; 01 chiếc kìm được làm bằng kim loại, tay cầm bằng cao su màu đỏ-đen. In chữ YCU-II, chiều dài 18,5cm, kìm cũ. Các vật chứng trên đã được xử lý tại Bản án số 82/2021/HS- ST ngày 02/8/2021 của Tòa án nhân dân huyện ML, do đó Hội đồng xét xử không xem xét lại.

[9] Đối với số tiền 1.750.000 đồng do mua bán tài sản trộm cắp mà có, bị cáo Quàng Văn T đã chi tiêu hết, cần buộc bị cáo truy thu nộp ngân sách Nhà nước.

[10] Về trách nhiệm dân sự: Người bị hại NC đã nhận lại đủ tài sản, không yêu cầu bị cáo bồi thường gì thêm. Hội đồng xét xử nhận thấy đây là ý kiến tự nguyện, không trái pháp luật, không trái đạo đức xã hội nên cần chấp nhận.

[11] Về án phí: Tài liệu trong hồ sơ xác định bị cáo là người dân tộc thiểu số sống ở vùng kinh tế xã hội đặc biệt khó khăn. Tại phiên tòa, bị cáo xin miễn nộp tiền án phí. Theo quy định tại điểm đ khoản 1 Điều 12 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 quy định về án phí và lệ phí Toà án, bị cáo thuộc trường hợp được miễn tiền án phí.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

1. Căn cứ khoản 1 Điều 173; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 17; Điều 58; Điều 38 Bộ luật hình sự năm 2015:

Tuyên bố: bị cáo Quàng Văn T phạm tội “Trộm cắp tài sản”.

- Xử phạt bị cáo Quàng Văn T 16 (mười sáu) tháng tù giam về tội Trộm cắp tài sản. Thời hạn tù tính từ ngày bị cáo bị bắt tạm giam giữ (ngày 11/7/2021).

- Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

Truy thu, tịch thu của bị cáo Quàng Văn T số tiền 1.750.000 đồng (Một triệu bảy trăm năm mươi nghìn đồng) để sung vào ngân sách Nhà nước.

2. Về trách nhiệm dân sự: Căn cứ các Điều 584, 585, 589 Bộ luật Dân sự: Chấp nhận việc người bị hại Lèo Văn T không yêu cầu bị cáo Quàng Văn T bồi thường gì thêm.

3. Về án phí: Căn cứ điểm đ khoản 1 Điều 12 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 quy định về án phí và lệ phí Toà án: Miễn nộp tiền án phí hình sự sơ thẩm cho bị cáo Quàng Văn T.

Bị cáo có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án sơ thẩm, ngày 17/9/2021. Người bị hại có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày, kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết theo quy định của pháp luật.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

211
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 93/2021/HS-ST ngày 17/09/2021 về tội trộm cắp tài sản

Số hiệu:93/2021/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Mường La - Sơn La
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 17/09/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về