Bản án 93/2021/HS-ST ngày 12/01/2021 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TOÀ ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ THANH HÓA - TỈNH THANH HOÁ

BẢN ÁN 93/2021/HS-ST NGÀY 12/01/2021 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 12 tháng 01 năm 2021, tại trụ sở Toà án nhân dân thành phố Thanh Hóa, tỉnh Thanh Hóa xét xử công khai sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số 113/2020/HSST, ngày 15 tháng 12 năm 2020 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 104/2020 /QĐXXST-HS ngày 31 tháng 12 năm 2020 đối với bị cáo:

Nguyễn Việt A, sinh năm 1986.

HKTT: Đường Q, phường Đ, thành phố Thanh Hóa, tỉnh Thanh Hóa; Nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hóa: Lớp 7/12; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông Nguyễn Văn Đ (Đã chết) và Bùi Thị Th, sinh năm 1956; Chưa có vợ, con; Tiền sự: Không; Tiền án: Ngày 20/01/2009 bị Tòa án nhân dân thành phố Thanh Hóa xử phạt 18 tháng tù về tội “Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản” Chưa chấp hành phần dân sự; Nhân thân: Ngày 18/4/2006 bị Tòa án nhân dân thành phố Thanh Hóa, xử phạt 06 tháng tù nhưng cho hưởng án treo về tội “Tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có”; Ngày 09/01/2009 bị Tòa án nhân dân thành phố Thanh Hóa xử phạt 18 tháng tù về tội “Cưỡng đoạt tài sản”; Ngày 14/3/2012 bị Công an thành phố Thanh Hóa xử phạt vi phạm hành chính về hành vi “Sử dụng trái phép chất ma túy”; Ngày 20/8/2012 bị Tòa án nhân dân thành phố Thanh Hóa xử phạt 36 tháng tù về tội “Cưỡng đoạt tài sản”; Ngày 11/12/2015 bị Tòa án nhân dân thành phố Thanh Hóa xử phạt 36 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”, chấp hành xong án phạt tù ngày 06/8/2018.

Bị bắt tạm giam ngày 15/9/2020. Hiện đang bị tạm giam tại tạm giam Công an tỉnh Thanh Hóa; Có mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 21 giờ ngày 22/8/2020, tổ tuần tra Công an phường A, thành phố H phối hợp cùng tổ công tác phòng PK02- Công an tỉnh Thanh Hóa làm nhiệm vụ tuần tra trên tuyến đường N, phường A, thành phố H đã phát hiện Nguyễn Việt A điều khiển xe mô tô BKS 36K3-5281 có biểu hiện nghi vấn nên tiến hành kiểm tra. Quá trình kiểm tra đã phát hiện và thu giữ trên tay trái của Việt A 01 gói nilong màu trắng, bên trong mỗi gói chứa bột màu trắng. Đấu tranh sơ bộ, Việt A khai nhận đó là ma túy Việt Amua về để sử dụng. Tổ công tác đã tiến hành lập biên bản thu giữ tang vật, ngoài ra còn thu giữ chiếc xe mô tô BKS 36K3-5281 do Việt A điều khiển.

Tại cơ quan điều tra, Nguyễn Việt A khai nhận: Do bản thân nghiện ma túy nên khoảng 06 giờ ngày 21/8/2020, Việt A đã đến khu vực nhà máy thuốc lá tại Thị trấn T, tỉnh Thanh Hóa gặp và mua được 01 gói ma túy với giá 200.000đ của một người đàn ông không biết tên, địa chỉ. Sau khi mua được số ma túy trên, Việt A cất giấu trong người rồi đi về nhà. Đến khoảng 21 giờ ngày 22/8/2020, Việt A cầm gói ma túy trên đi tìm nơi để sử dụng thì bị tổ tuần tra phát hiện, bắt quả tang.

Tại kết luận giám định số 2263/MT-PC09 ngày 25/8/2002 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Thanh Hóa đã kết luận: Chất bột màu trắng của phong bì niêm phong ký hiệu M gửi giám định là ma túy, có tổng trọng lượng 0,294g, loại heroine.

Đối với người thanh niên bán ma túy cho Việt A, do Việt A khai không biết tên, tuổi, địa chỉ nên Cơ quan điều tra không có căn cứ để xác minh, xử lý.

Đối với chiếc xe mô tô BKS 36K3-5281 là tài sản hợp pháp của anh Nguyễn Việt H. Anh H không biết việc Việt A mượn xe đi mua ma túy sử dụng nên Cơ quan CSĐT đã trả lại chiếc xe trên cho anh H.

Tại cáo trạng số 08/CT-VKS, ngày 14/12/2020 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Thanh Hóa truy tố Nguyễn Việt A về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự năm 2015.

Tại phiên tòa hôm nay Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Thanh Hóa, tỉnh Thanh Hóa giữ nguyên Quyết định truy tố như cáo trạng và đề nghị Hội đồng xét xử: Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; Điểm s khoản 1 Điều 51; điểm h khoản 1 Điều 52; Điều 38 Bộ luật hình sự năm 2015; Tuyên bố bị cáo Nguyễn Việt A phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy, đề nghị xử phạt bị cáo mức án từ 24 tháng đến 30 tháng tù và đề nghị xử lý vật chứng.

Bị cáo thừa nhận hành vi phạm tội và xin được hưởng sự khoan hồng với mức hình phạt thấp nhất.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an thành phố Thanh Hóa, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Thanh Hóa, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa hôm nay, bị cáo Nguyễn Việt A thừa nhận: Vào khoảng 21giờ ngày 22/8/2020, tổ tuần tra Công an phường A, thành phố H phối hợp cùng tổ công tác phòng PK02- Công an tỉnh Thanh Hóa làm nhiệm vụ tuần tra trên tuyến đường N, phường A, thành phố H đã bắt quả tang Nguyễn Việt A có hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy để sử dụng. Theo kết luận giám định tang vật thu giữ của Việt A là ma túy trọng lượng 0,294g loại heroine.

Lời nhận tội của bị cáo tại phiên toà phù hợp với nội dung bản cáo trạng và các tài liệu chứng cứ đã được thu thập có trong hồ sơ vụ án. Quyết định truy tố và lời luận tội của Viện kiểm sát tại phiên toà là có căn cứ. Hội đồng xét xử có đủ cơ sở kết luận Nguyễn Việt A phạm tội“Tàng trữ trái phép chất ma tuý” theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự năm 2015.

[3] Về trách nhiệm hình sự đối với bị cáo: Bị cáo biết rõ ma túy là một trong những tệ nạn nguy hiểm cho xã hội, gây ra nhiều hậu quả nghiêm trọng đến đời sống của nhiều gia đình. Ma túy đã làm kiệt quệ về sức khỏe và tài sản, là nguyên nhân làm gia tăng tội phạm, gây lan truyền căn bệnh HIV/ADS. Do nghiện ma túy nên bị cáo đã tàng trữ trái phép chất ma túy nhằm mục đích sử dụng. Hành vi của bị cáo đã xâm phạm đến chế độ độc quyền quản lý về các chất gây nghiện của Nhà nước và còn gây mất trật tự trị an xã hội.

[4] Xét các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị cáo:

Tình tiết tăng nặng: Bị cáo có 01 tiền án, chưa được xóa án tích, lần phạm tội này là tái phạm, quy định tại điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự. Ngoài ra, bị cáo có nhân thân xấu, đã từng bị xét xử nhiều lần nhưng vẫn tiếp tục có hành vi vi phạm. Vì vậy cần phải xử lý nghiêm tương xứng với hành vi mà bị cáo đã gây ra nhằm cải tạo cũng như giáo dục và phòng ngừa chung.

Tình tiết giảm nhẹ: Quá trình điều tra truy tố và tại phiên toà hôm nay, bị cáo đã thành khẩn khai báo về hành vi phạm tội nên được áp dụng tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015.

Với tính chất vụ án nghiêm trọng, với nhân thân của bị cáo, xét cần thiết phải cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian như vậy mới đủ điều kiện cải tạo bị cáo thành công dân có ích cho xã hội.

Do bị cáo không có việc làm và thu nhập ổn định nên Hội đồng xét xử không áp dụng hình phạt tiền.

[5] Về xử lý vật chứng: Đối với số ma túy còn lại sau giám định là mặt hàng Nhà nước cấm lưu hành nên tịch thu tiêu hủy.

[6] Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí theo quy định của pháp luật . Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào: Điểm c khoản 1 Điều 249; Điểm s khoản 1 Điều 51; Điểm h khoản 1 Điều 52; Điều 38 Bộ luật hình sự năm 2015.

Tuyên bố: Bị cáo Nguyễn Việt A phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

Xử phạt: Nguyễn Việt A 24 (Hai mươi bốn) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 15/9/2020.

Về xử lý vật chứng: Áp dụng điểm a khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015: Tịch thu tiêu huỷ Một phong bì ma túy niêm phong của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Thanh Hóa, được đóng dấu của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Thanh Hóa. Bên trong chứa số ma túy còn lại sau giám định.

Hiện số tang vật và tài sản đang được lưu giữ tại Chi cục thi hành án dân sự thành phố Thanh Hóa theo biên bản giao nhận vật chứng số 67/THA ngày 17/12/2020 giữa Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Thanh Hóa với Công an thành phố Thanh Hóa.

Về án phí: Áp dụng khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015; khoản 1 Điều 21; điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH ngày 30/12/2016 của UBTVQH 14. Bị cáo Nguyễn Việt A phải nộp 200.000đ án phí hình sự sơ thẩm.

Về quyền kháng cáo: Áp dụng Điều 331, 333 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015, bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án sơ thẩm.

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 7 và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

181
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 93/2021/HS-ST ngày 12/01/2021 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:93/2021/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Thanh Hóa - Thanh Hoá
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 12/01/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về