Bản án 93/2021/HS-PT ngày 22/01/2021 về tội giết người

TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO TẠI ĐÀ NẴNG

BẢN ÁN 93/2021/HS-PT NGÀY 22/01/2021 VỀ TỘI GIẾT NGƯỜI

Ngày 22 tháng 01 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Khánh Hòa, Tòa án nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng xét xử phúc thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 16/2020/TLPT-HS ngày 02 tháng 10 năm 2020 đối với bị cáo Cao H về tội “Giết người”. Do có kháng cáo của đại diện hợp pháp của người bị hại đối với bản án hình sự sơ thẩm số 82/2020/HSST ngày 27/08/2020 của Tòa án nhân dân tỉnh Khánh Hòa.

- Bị cáo bị kháng cáo:

Cao H, sinh năm 1989, tại Khánh Hòa; Nơi cư trú: Thôn T, xã S, huyện K, tỉnh Khánh Hòa; Nghề nghiệp: Làm rẫy; Trình độ học vấn: 04/12; Dân tộc: Rắc Lây; Giới tính: Nam; Tôn giáo; Không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông Bo Bo Tiến A và bà Cao Thị H; Có vợ và hai con; Tiền án, tiền sự: Không; Đầu thú và bị bắt tạm giữ ngày 30/4/2020; Tạm giam ngày 09/5/2020; có mặt.

Người bào chữa: Ông Phan Bạch M, Luật sư, Văn phòng Luật sư P, Đoàn luật sư tỉnh Khánh Hòa; Địa chỉ: Khánh Hòa; có mặt.

- Bị hại: Mấu Quốc H, sinh năm 1987 (đã chết ngày 29/4/2020);

Đại diện hợp pháp của bị hại:

1. Chị Mấu Thị T, sinh năm 1987; Nơi cư trú: Thôn T, xã S, huyện K, tỉnh Khánh Hòa (là vợ của bị hại); có mặt.

2. Ông Mấu Hồng T, sinh năm 1940; Nơi cư trú: Thôn H, xã. S, huyện K, tỉnh Khánh Hòa (là cha của bị hại); vắng mặt.

3. Bà Mấu Thị Hồng S, sinh năm 1941; Nơi cư trú: Thôn H, xã S, huyện K, tỉnh Khánh Hòa (là mẹ của bị hại); vắng mặt.

Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho đại diện bị hại: Bà Phạm Trân Nhật T – Trợ giúp viên, Trung tâm trợ giúp pháp lý nhà nước tỉnh Khánh Hòa; có mặt.

Ngoài ra trong vụ án còn có những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan không có kháng cáo; không bị kháng cáo, kháng nghị.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 12 giờ 00 phút ngày 29 tháng 4 năm 2020, Cao H tổ chức ăn uống tại nhà cùng một số người thân. Trong lúc ăn uống, H và Mấu Quốc H (chú họ của vợ H) nói chuyện về đất đai trong gia đình và xảy ra mâu thuẫn. Khoảng 19 giờ cùng ngày, H gọi H ra phía hông nhà của H và dùng tay đánh H. H chạy vào nhà bếp lấy một con dao T Lan cán vàng quay lại chỗ H đứng đâm một nhát vào ngực H rồi rút dao ra thì lưỡi dao bị sút ra rơi xuống đất. Sau khi bị đâm, H chạy ra trước nhà H gọi mọi người đưa đi bệnh viện và tử vong trên đường đi cấp cứu. Khi biết bị hại chết, bị cáo đã ra đầu thú và tác động gia đình bồi thường cho gia đình bị hại.

Tại bản Kết luận giám định pháp y về tử thi số 191/TT-PY ngày 04/5/2020, Trung tâm Pháp y - Sở Y tế Khánh Hòa kết luận: Nguyên nhân tử vong của Mấu Quốc H: Suy tuần toàn do vết thương xuyên thấu ngực, bụng gây thủng tim, thủng cơ hoành, thủng gan phù hợp tác nhân là vật sắc nhọn chiều hướng từ ngoài vào trong, trên xuống dưới, trái qua phải.

Tại bản án hình sự sơ thẩm số 82/2020/HS-ST ngày 27/8/2020 của Tòa án nhân dân tỉnh Khánh Hòa đã quyết định:

Căn cứ điểm n Khoản 1 Điều 123, điểm b, s khoản 1 Điều 51, khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự, Xử phạt: Cao H 17 (mười bảy) năm tù về tội “Giết người”; Thời hạn tù tính từ ngày bắt tạm giữ (30/4/2020);

Ngoài ra bản án còn quyết định về phần trách nhiệm dân sự, xử lý vật chứng, án phí và quyền kháng cáo.

Ngày 09/9/2020 đại diện hợp pháp của người bị hại có đơn kháng cáo toàn bộ bản án.

Tại phiên tòa đại diện hợp pháp cho người bị hại giữ nguyên yêu cầu kháng cáo và trình bày: Do bị cáo và gia đình bị cáo không chịu bồi thường cho gia đình bị hại nên Tôi kháng cáo yêu cầu tăng hình phạt;

Kiểm sát viên đại diện cho Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng phát biểu quan điểm như sau: Tòa án sơ thẩm đã áp dụng điểm n khoản 1 Điều 123, điểm b,s khoản 1,2 Điều 51 BLHS xử phạt bị cáo Cao H 17 năm tù về tội “Giết người” là có căn cứ đúng nguòi, đúng tội; về mặt dân sự công nhận sự thỏa thuận giưa bị cáo và đại diện người bị hại tại phiên tòa là đúng. Đại diện hợp pháp cho người bị hại kháng cáo nhưng không có chứng cứ nào mới khác; do đó đề nghị không chấp nhận kháng cáo của người bị hại, giữ nguyên bản án sơ thẩm.

Đại diện hợp pháp cho người bị hại trình bày: Do bị cáo và gia đình bị cáo không chịu bồi thường và có lời lẽ thách thức do đó Tôi mới kháng cáo; đề nghị Hội đồng xét xử buộc bị cáo và gia đình phải bồi thường cho bị hại.

Người bào chữa cho bị cáo và bị cáo Cao H đề nghị không chấp nhận kháng cáo của đại diện hợp pháp người bị hại, giữ nguyên bản án sơ thẩm.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Lời khai nhận tội của bị cáo Cao H tại phiên tòa phù hợp với các tài liệu có tại hồ sơ vụ án, Hội đồng xét xử có cơ sở nhận định: Ngày 29/4/2019, chỉ vì mâu thuẫn nhỏ giữa bị cáo và người bị hại, bị cáo đã dùng dao thái lan đâm vào vùng ngực của người bị hại anh Mấu Quốc H làm anh H tử vong. Tòa án sơ thẩm đã xét xử bị cáo về tội “ Giết người” theo điểm n khoản 1 Điều 123 BLHS là có căn cứ đúng pháp luật.

[2] Xét kháng cáo của đại diện hợp pháp cho người bị hại, thấy:

Hành vi của bị cáo thể hiện tính côn đồ, xem thường tính mạng, sức khỏe người khác, gây mất trật tự trị an tại địa phương, gây tâm lý hoang mang lo sợ trong nhân dân, ảnh hưởng xấu an ninh xã hội. Tòa án cấp sơ thẩm đã căn cứ quy định tại điểm n khoản 1 Điều 123 Bộ luật hình sự, tính chất và mức độ hành vi phạm tội của bị cáo, hậu quả bị cáo gây ra, nhân thân của bị cáo, áp dụng đúng đầy đủ các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự xử phạt bị cáo 17 năm tù về tội “giết người” là có căn cứ, đúng pháp luật. Về trách nhiệm bồi thường dân sự: Tại phiên tòa sơ thẩm giữa bị cáo và đại diện hợp pháp cho người bị hại đã thỏa thuận về bồi thường thiệt hại, sự thỏa thuận là tự nguyện, không trái pháp luật và đạo đức xã hội được Tòa án sơ thẩm công nhận là có căn cứ và đúng pháp luật. Tại cấp phúc thẩm người đại diện hợp pháp cho người bị hại kháng cáo nhưng không có tình tiết nào mới khác. Do đó, không chấp nhận kháng cáo của đại diện hợp pháp cho người bị hại, giữ nguyên quyết định của bản án sơ thẩm.

[3] Các quyết định khác của bản án sơ thẩm về trách nhiệm bồi thường dân sự, về xử lý vật chứng, về án phí dân sự và hình sự sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

[4] Căn cứ điểm d khoản 1 Điều 12 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý, sử dụng án phí và lệ phí Toà án. Đại diện hợp pháp của người bị hại không phải chịu án phí hình sự phúc thẩm.

Vì những lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ điểm a khoản 1 Điều 355, Điều 356 Bộ luật tố tụng hình sự ;

1.Không chấp nhận kháng cáo của đại diện hợp pháp cho người bị hại bà Mấu Thị T và giữ nguyên bản án sơ thẩm.

Căn cứ điểm n khoản 1 Điều 123; điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017.

Xử phạt: Cao H 17 (mười bảy) năm tù về tội “Giết người”. Thời hạn tù tính từ ngày tạm giữ, tạm giam ngày 30/4/2020.

2.Công nhận sự thỏa thuận của đại diện bị hại và bị cáo như sau:

Bị cáo phải bồi thường tổn thất tinh thần cho ông Mấu Hồng T, bà Mấu Thị Hồng S, chị Mấu Thị T, cháu Mấu Lệ Mi S, Mấu Quốc S số tiền 149.000.000,đồng (một trăm bốn mươi chín triệu đồng); Cụ thể: mỗi người được bồi thường 29.800.000,đồng (Hai mươi chín triệu tám trăm nghìn đồng).

Bị cáo còn phải cấp dưỡng cho ông Mấu Hồng T, bà Mấu Thị Hồng S - mỗi người 500.000đ/tháng (năm trăm nghìn đồng/tháng), kể từ ngày 29/4/2020; Mấu Lệ Mi S, Mấu Quốc S - mỗi cháu 2.000.000, đồng/tháng (Hai triệu đồng/tháng), kể từ ngày 29/4/2020 đến khi các cháu đủ 18 tuổi.

Kể từ ngày người được thi hành án có đơn yêu cầu thi hành án, người phải thi hành án phải trả lãi đối với số tiền chậm thi hành theo quy định tại Điều 357 Bộ luật Dân sự.

Trong trường hợp bản án được thi hành theo Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; Thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

3.Các quyết định khác của bản án hình sự sơ thẩm số 82/2020/HS-ST ngày 27/8/2020 của Tòa án nhân dân tỉnh Khánh Hòa về xử lý vật chứng, về án phí dân sự và hình sự sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

4. Về án phí:

Đại diện hợp pháp cho người bị hại bà Mấu Thị T không phải phải chịu án phí hình sự phúc thẩm.

Bản án hình sự phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

353
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 93/2021/HS-PT ngày 22/01/2021 về tội giết người

Số hiệu:93/2021/HS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân cấp cao
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 22/01/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về