TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ TAM ĐIỆP, TỈNH NINH BÌNH
BẢN ÁN 93/2020/HS-ST NGÀY 30/12/2020 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY
Ngày 30 tháng 12 năm 2020 tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Tam Điệp, xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 92/2020/TLST-HS ngày 24 tháng 11 năm 2020 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 91/2020/QĐXXST-HS ngày 17 tháng 12 năm 2020 đối với bị cáo:
Vi Thị M – Sinh ngày 28 tháng 7 năm 1987 tại huyện Nh, tỉnh Thanh Hóa; Nơi cư trú: Thôn L, xã Th, huyện Nh, tỉnh Thanh Hóa; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Trình độ văn hóa 12/12; dân tộc: Thái; giới tính: Nữ; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Vi Ngọc Th và con bà Lương Thị T; bị cáo có chồng và có 01 con; Tiền án, tiền sự: Không; Nhân thân: Không.
Bị cáo bị bắt tạm giữ từ ngày 08/9/2020, đến ngày 11/9/2020 được thay đổi biện pháp ngăn chặn bằng lệnh cấm đi khỏi nơi cư trú. Hiện bị cáo đang bị áp dụng biện pháp ngăn chặn bằng Lệnh cấm đi khỏi nơi cư trú số 57/2020/HSST- LCĐKNCT ngày 24 tháng 11 năm 2020 của Tòa án nhân dân thành phố Tam Điệp (có mặt).
- Những người làm chứng:
+ Ông Nguyễn Văn Th, sinh năm: 1961(Vắng mặt)
+ Anh Đinh Văn Th, sinh năm: 1985 (Vắng mặt)
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Khoảng 11 giờ 50 phút ngày 8/9/2020 tổ công tác Công an phường Y phối hợp với Công an phường T tiến hành tuần tra đảm bảo an ninh trên địa bàn hai phường, khi đi đến đường Q, thuộc tổ 7, phường T, thành phố T phát hiện một người phụ nữ đứng bên phải đường theo hướng quốc lộ 1A đi xã Q có biểu hiện nghi vấn liên quan đến ma túy. Tổ công tác đến yêu cầu kiểm tra hành chính, người phụ nữ không xuất trình được giấy tờ tùy thân và khai tên Vi Thị M, M lấy từ chiếc ba lô đang đeo trên vai ra 01 chiếc quần thun màu trắng đen và lấy từ túi quần bên phải của chiếc quần 01 túi ni lon màu trắng bên trong có chứa chất tinh thể màu trắng giao nộp cho tổ công tác, đồng thời khai nhận là ma túy M dùng để sử dụng cho bản thân. Tổ công tác kiểm tra đo kích thước túi nilon là (1,5x2) cm và tiến hành thu giữ, niêm phong theo quy định. Quá trình kiểm tra còn thu giữ của Vi Thị M gồm: 01 điện thoại di động nhãn hiệu Oppo số imei 86849903022694 bên trong lắp 01 sim điện thoại số thuê bao 0366878116, 01 ba lô màu nâu, 01 chiếc quần thun màu trắng đen và số tiền 150.000 đồng. Sau đó đưa Vi Thị M cùng vật chứng về trụ sở Công an phường T lập biên bản thu giữ niêm phong vật chứng và biên bản bắt người phạm tội quả tang.
Ngày 8/9/2020 vụ việc đã được chuyển đến cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố T giải quyết theo thẩm quyền.
Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố T đã tiến hành mở niêm phong cân xác định chất tinh thể màu trắng thu giữ của Vi Thị M có khối lượng là 0,27 gam kí hiệu M và gửi đi giám định.
Tại bản kết luận giám định số 247/KLGĐ-PC09-MT ngày 11/9/2020 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Ninh Bình kết luận :
Mẫu chất dạng tinh thể màu trắng gửi giám định ký hiệu M có khối lượng 0,2559 (không phẩy hai nghìn năm trăm năm mươi chín) gam là ma túy, loại Methamphetamine.
Methamphetamine là chất ma túy thuộc danh mục II, số thứ tự 323; Nghị định số 73/2018/NĐ-CP ngày 15/5/2018 của Chính phủ.
Quá trình điều tra, bị cáo Vi Thị M đã thành khẩn khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình.
Tại bản Cáo trạng số 94/CT – VKS ngày 23 tháng 11 năm 2020 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Tam Điệp, tỉnh Ninh Bình đã truy tố bị cáo Vi Thị M ra trước Tòa án nhân dân thành phố Tam Điệp để xét xử về tội: “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Tam Điệp tại phiên tòa sau khi phân tích đánh giá tính chất vụ án, xem xét hậu quả do hành vi phạm tội mà bị cáo gây ra, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, quan điểm truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử: Tuyên bố bị cáo Vi Thị M phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.
- Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249, điểm s, n khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự .
Xử phạt bị cáo Vi Thị M từ 15 (Mười lăm) đến 18 (Mười tám) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày bắt bị cáo đi thi hành án được trừ đi 03 ngày tạm giữ từ ngày 08/9/2020 đến ngày 11/9/2020.
- Về xử lý vật chứng và các biện pháp tư pháp:
Áp dụng điểm c, khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự, điểm a, c khoản 2 Điều 106 của Bộ luật Tố tụng Hình sự:
- Tịch thu tiêu hủy + 01 (một) phong bì dán kín mép niêm phong còn nguyên vẹn, bên ngoài ghi số 247/KLGĐ-PC09-MT; Mẫu vật hoàn trả gồm: M = 0,1516 gam là ma túy, loại Methamphetamine; toàn bộ vỏ, bao gói niêm phong.
+ 01 (một) phong bì dán kín mép niêm phong còn nguyên vẹn, bên ngoài ghi vật chứng còn lại: 01 (một) vỏ túi nilon màu trắng kích thước (1,5 x 2) cm; 01 (một) vỏ phong bì dùng để niêm phong vật chứng thu giữ ban đầu của Vi Thị M.
+ 01 (một) vỏ phong bì bị xé rách một đầu đã dùng để niêm phong điện thoại di động thu giữ của Vi Thị M.
- 01 (một) ba lô màu nâu đã cũ, nhãn HOÀNG HÀ DODA.
- 01 (một) chiếc quần dạng thun màu trắng đen.
Trong quá trình điều tra, ông Nguyễn Văn Th trình bày: Khoảng 11 giờ 50 phút ngày 08/9/2020 ông và anh Đinh Văn Th đi làm về đến đoạn đường Q thuộc tổ 7, phường T, thành phố T thì ông thấy lực lượng Công an đi đến gần một người phụ nữ đang đứng một mình ở vỉa hè bên phải vào đường Q theo hướng từ QL1A đi vào xã Q bên cạnh khách sạn Galaxy. Thấy vậy ông và anh Th dừng xe đến xem thì lực lượng Công an đã mời ông và anh Th làm chứng việc Công an tiến hành kiểm tra người phụ nữ. Quá trình kiểm tra người phụ nữ chấp hành, khai tên Vi Thị M, sinh năm 1987, trú tại thôn L, xã Th, huyện Nh, tỉnh Thanh Hóa, lúc này M khai nhận là người sử dụng ma túy và đã tự bỏ chiếc balo màu nâu đang khoác ở sau lưng xuống, lấy ra 01 chiếc quần dạng thun màu trắng đen, tự lấy trong túi quần bên phải ra 01 túi nilon màu trắng bên trong có chất tinh thể màu trắng giao nộp cho Công an, đồng thời khai nhận là ma túy đá mang theo để sử dụng cho bản thân. Tại chỗ lực lượng Công an tiến hành kiểm tra, đo kích thước túi nilon có chứa chất tinh thể màu trắng. Sau khi kiểm tra xong lực lượng Công an gói lại như cũ, niêm phong túi nilon trên vào một phong bì dán kín mép, trên mép dán có chữ ký của M, của chúng tôi và lực lượng Công an làm nhiệm vụ sau đó đưa M và mời chúng tôi về trụ sở Công an phường T tiếp tục làm việc.
Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo đã khai nhận hành vi bị truy tố như bản cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Tam Điệp. Bị cáo không tranh luận với đại diện Viện kiểm sát về tội danh, hình phạt và nói lời sau cùng xin Hội đồng xét xử xem xét xử phạt bị cáo mức án thấp nhất để yên tâm cải tạo sớm trở về với gia đình và xã hội.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan cảnh sát điều tra, Điều tra viên và Viện kiểm sát, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo và những người tham gia tố tụng khác không ai có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, Quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng và những người tiến hành tố tụng. Do đó các hành vi, Quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng và những người tiến hành tố tụng đã thực hiện là hợp pháp.
[2] Lời khai của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai tại Cơ quan điều tra; phù hợp với lời khai của người làm chứng; vật chứng đã thu giữ; Kết luận giám định số: 247/KLGĐ-PC09-MT ngày 11/9/2020 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Ninh Bình cùng các tài liệu khác có trong hồ sơ vụ án. Hội đồng xét xử đã có đủ căn cứ để kết luận: Khoảng 11 giờ 50 phút ngày 8/9/2020, tại đường Q, thuộc tổ dân phố 7, phường T, thành phố T, Vi Thị M có hành vi tàng trữ trái phép 0,2559 gam ma túy Methamphetamin để sử dụng cho bản thân, bị Công an phát hiện, bắt quả tang đã đủ yếu tố cấu thành tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, tội phạm và hình phạt được quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự.
Theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 “ Người nào tàng trữ trái phép chất ma túy không nhằm mục đích mua bán, vận chuyển, sản xuất trái phép chất ma túy thuộc một trong các trường hợp sau đây thì bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm.
a) ...;
c) Heroine, côcain, Methamphetamine, Amphetamine, MDMA hoặc XLR – 11 có khối lượng từ 0,1 gam đến dưới 05 gam;
Hành vi phạm tội của bị cáo mang tính chất nghiêm trọng, nó không những đã trực tiếp xâm phạm đến sức khỏe của chính bản thân bị cáo mà còn ảnh hưởng đến trật tự trị an trên địa bàn thành phố T, gây bức xúc trong quần chúng nhân dân về tệ nạn xã hội nói chung và tệ nạn ma túy nói riêng. Mặt khác xâm phạm đến chính sách độc quyền quản lý của nhà nước đối với chất ma túy. Do đó cần phải xử lý nghiêm minh đối với bị cáo đồng thời góp phần phòng ngừa chung.
[3] Về tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Bị cáo không có tình tiết tăng nặng. Về tình tiết giảm nhẹ: tại Cơ quan điều tra và tại phiên tòa, bị cáo thành khẩn khai báo, thời điểm bị cáo phạm tội bị cáo đang mang thai. Do vậy đây là các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được quy định tại điểm s và n khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự.
[4] Về nhân thân: Bị cáo Vi Thị M chưa có tiền án, tiền sự.
[5] Xét tính chất hành vi phạm tội, khối lượng và loại chất ma túy mà bị cáo tàng trữ, tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và nhân thân của bị cáo. Hội đồng xét xử thấy cần phải áp dụng một mức hình phạt nghiêm khắc, tương xứng với hành vi phạm tội của bị cáo và phải cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian đủ nghiêm để giáo dục cải tạo bị cáo thành công dân có ích cho xã hội.
[6] Về hình phạt bổ sung: Bị cáo tàng trữ ma túy để sử dụng không nhằm mục đích kiếm lời. Do đó, Hội đồng xét xử quyết định không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo Vi Thị M.
[7] Về nguồn gốc ma túy, loại Methamphetamine, Vi Thị M khai do một người nam thanh niên tên N đưa cho M sử dụng. Bản thân M không biết lai lịch, địa chỉ của người đàn ông tên N. Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố T đã tiến hành xác minh nhưng không xác định được tên, tuổi, địa chỉ, do đó không có căn cứ để xử lý theo quy định của pháp luật.
[8] Về xử lý vật chứng và các biện pháp tư pháp:
Đối với 01 (một) phong bì dán kín mép niêm phong còn nguyên vẹn, bên ngoài ghi số 247/KLGĐ-PC09-MT; Mẫu vật hoàn trả gồm: M = 0,1516 gam là ma túy, loại Methamphetamine; toàn bộ vỏ, bao gói niêm phong; 01 (một) phong bì dán kín mép niêm phong còn nguyên vẹn, bên ngoài ghi vật chứng còn lại: 01 (một) vỏ túi nilon màu trắng kích thước (1,5 x 2) cm; 01 (một) vỏ phong bì giấy dùng để niêm phong vật chứng thu giữ ban đầu của Vi Thị M; 01 (một) vỏ phong bì bị xé rách một đầu đã dùng để niêm phong điện thoại di động thu giữ của Vi Thị M cần tịch thu tiêu hủy là phù hợp với điểm c khoản 1 Điều 47 của Bộ luật Hình sự; điểm a, c khoản 2 Điều 106 của Bộ luật Tố tụng Hình sự.
Đối với 01 (một) chiếc ba lô màu đen đã cũ, nhãn HOÀNG HÀ DODA; 01 (một) ) chiếc quần dạng thun màu trắng đen thu giữ của bị cáo Vi Thị M không còn giá trị sử dụng cần tịch thu tiêu hủy là phù hợp với điểm a khoản 1 Điều 47 của Bộ luật Hình sự; điểm a, c khoản 2 Điều 106 của Bộ luật Tố tụng Hình sự.
Đối với 01 điện thoại di động nhãn hiệu Oppo số imei 86849903022694 bên trong lắp 01 sim điện thoại số thuê bao 0366878116, số tiền 150.000 đồng. Quá trình điều tra xác định là tài sản hợp pháp của Vi Thị M, không liên quan đến hành vi phạm tội. Do đó Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố T đã trả lại cho bị cáo Vi Thị M là đúng quy định của pháp luật.
[9] Bị cáo bị kết án nên phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định khoản 2 Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự, điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
[10] Bị cáo có quyền kháng cáo bản án theo quy định của pháp luật.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH
- Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 249 ; điểm n và s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự.
- Căn cứ điểm a, c khoản 1 Điều 47 của Bộ luật Hình sự, điểm a, c khoản 2 Điều 106 của Bộ luật Tố tụng Hình sự.
- Căn cứ khoản 2 Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự, điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
1/ Tuyên bố: Bị cáo Vi Thị M phạm tội: Tàng trữ trái phép chất ma túy.
- Xử phạt bị cáo Vi Thị M 15 (Mười lăm) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày bắt bị cáo đi thi hành án, được trừ đi 03 ngày tạm giữ từ ngày 08/9/2020 đến ngày 11/9/2020.
2/ Về xử lý vật chứng và các biện pháp tư pháp:
- Tịch thu tiêu hủy + 01 (một) phong bì giấy dán kín mép niêm phong theo đúng thủ tục pháp luật còn nguyên vẹn, bên ngoài ghi số 247/KLGĐ-PC09-MT; vụ Vi Thị M, sinh năm 1987, trú tại xã Th, huyện Nh, tỉnh Thanh Hóa. Xảy ra ngày 08/9/2020 tại phường T, thành phố T, tỉnh Ninh Bình. Mẫu vật hoàn trả gồm: M = 0,1516 gam là ma túy, loại Methamphetamine; toàn bộ vỏ, bao gói niêm phong, theo biên bản cân xác định khối lượng, niêm phong và giao nhận đối tượng sau giám định hồi 14 giờ ngày 11/9/2020 giữa Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Ninh Bình với Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố T.
+ 01 (một) phong bì giấy dán kín mép niêm phong theo đúng thủ tục pháp luật còn nguyên vẹn, bên ngoài ghi vật chứng còn lại: 01 (một) vỏ túi nilon màu trắng kích thước (1,5 x 2) cm; 01 (một) vỏ phong bì giấy dùng để niêm phong vật chứng thu giữ ban đầu của Vi Thị M.
+ 01 (một) vỏ phong bì bị xé rách một đầu đã dùng để niêm phong điện thoại di động thu giữ của Vi Thị M.
- 01 (một) ba lô màu nâu đã cũ, nhãn HOÀNG HÀ DODA.
- 01 (một) chiếc quần dạng thun màu trắng đen.
Những vật chứng trên Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố T đã chuyển cho Chi cục Thi hành án dân sự thành phố T theo biên bản giao nhận vật chứng ngày 07 tháng 12 năm 2020 giữa Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố T và Chi cục Thi hành án dân sự thành phố T.
3/ Về án phí:
Buộc bị cáo Vi Thị M phải nộp 200.000 đồng (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm để nộp ngân sách nhà nước.
Án xử công khai sơ thẩm bị cáo có mặt có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.
Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a, 7b và 9 của Luật Thi hành án dân sự, thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.
Bản án 93/2020/HS-ST ngày 30/12/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy
Số hiệu: | 93/2020/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Thành phố Tam Điệp - Ninh Bình |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 30/12/2020 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về