Bản án 93/2020/HS-ST ngày 28/09/2020 về tội trộm cắp tài sản

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN SƠN DƯƠNG, TỈNH TUYÊN QUANG

BẢN ÁN 93/2020/HS-ST NGÀY 28/09/2020 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 28/9/2020, tại trụ sở Toà án nhân dân huyện Sơn Dương, tỉnh Tuyên Quang xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 102/2020/TLST- HS ngày 15 tháng 9 năm 2020 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 93/2020/QĐXXST- HS, ngày 16 tháng 9 năm 2020 đối với các bị cáo:

1. Đặng Văn H; sinh ngày 05/5/1992 tại huyện Y, tỉnh Tuyên Quang.

Nơi cư trú: Thôn K, xã T, huyện Y, tỉnh Tuyên Quang; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hóa (học vấn): 8/12; dân tộc: Dao; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Đặng Văn P, sinh năm 1973 và bà Đặng Thị L, sinh năm 1974; vợ: Lý Thị N, sinh năm 1992; con: có 01 con, sinh năm 2015; Anh chị em ruột: có 02 người, bị cáo là con thứ nhất; tiền án, tiền sự, nhân thân: Không.

Bị cáo bị bắt tạm giam từ ngày 27/8/2020, hiện đang bị tạm giam tại Trại tạm giam Công an tỉnh Tuyên Quang (có mặt).

2. Ma Khánh B; sinh ngày 19/5/1990 tại huyện Đ, tỉnh Thái Nguyên.

Nơi cư trú: Thôn Đ, xã P, huyện Đ, tỉnh Thái Nguyên; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hóa (học vấn): 9/12; dân tộc: Tày; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Ma Đình Đ, sinh năm 1944 và bà Lý Thị B, sinh năm 1948; vợ, con: Chưa có; Anh chị em ruột: Có 05 người, bị cáo là con thứ năm; tiền sự: Không.

Tiền án: Bản án số 42/2018/HS-ST ngày 29/11/2018 của Tòa án nhân dân huyện Đ, tỉnh Thái Nguyên xử phạt Ma Khánh B 18 tháng tù về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy (Chấp hành xong hình phạt tù ngày 08/01/2020, chưa được xóa án tích).

Nhân thân: Quyết định số 55b/QĐ-UBND ngày 13/4/2020 của UBND xã Phú Đình, huyện Định Hóa, tỉnh Thái Nguyên áp dụng biện pháp giáo dục tại xã đối với Ma Khánh B là người nghiện ma túy tại gia đình, thời hạn 06 tháng (chưa chấp hành xong).

Bị cáo bị bắt tạm giam từ ngày 25/8/2020, hiện đang bị tạm giam tại Trại tạm giam Công an tỉnh Tuyên Quang (có mặt).

- Người bị hại:

1. Bà Trịnh Thị S, sinh năm 1964; trú tại: thôn Đ, xã T, huyện S, tỉnh Tuyên Quang (có mặt).

2. Chị Ma Thị N, sinh năm 1986; trú tại: thôn T, xã T, huyện S, tỉnh Tuyên Quang (có mặt).

3. Anh Phùng Văn H, sinh năm 1996; trú tại: thôn K, xã T, huyện S, tỉnh Tuyên Quang (vắng mặt).

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

1. Anh Đinh Văn H, sinh năm 1983; trú tại: Thôn Y, xã B, huyện Đ, tỉnh Thái Nguyên (có mặt).

2. Ông Đỗ Văn M, sinh năm 1967; trú tại: Thôn B, xã B, huyện Đ, tỉnh Thái Nguyên (vắng mặt).

3. Anh Dương Văn , sinh năm 1989; trú tại: Xóm Q, xã T, huyện Đ, tỉnh Thái Nguyên (có mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khong 08 giờ 30 phút ngày 11/8/2020, Đặng Văn H (là người nghiện chất ma túy) đi bộ từ huyện Đ, tỉnh Thái Nguyên để về nhà, khi đến thôn T, xã T, huyện S, tỉnh Tuyên Quang phát hiện tại vị trí đường dân sinh bên phải (hướng Thái Nguyên đi Tuyên Quang) có 01 chiếc xe mô tô nhãn hiệu ESPERO, biển kiểm soát 22A-035.87 của bà Trịnh Thị S (trú thôn Đ, xã T, huyện Sơn Dương) không có người trông giữ, H nảy sinh ý định trộm cắp chiếc xe mô tô đó để bán lấy tiền, nên đã đến tháo rắc để đấu nối ổ khóa điện, sau đó khởi động xe nổ và điều khiển xe theo hướng về huyện Đ, tỉnh Thái Nguyên. Khoảng 11 giờ cùng ngày, khi đến xóm Y, xã B, huyện Đ, tỉnh Thái Nguyên, H đi vào quán thu mua xe của anh Đinh Văn H, H giới thiệu tên là Trung (trú thôn Yên Thượng, xã Tân Trào, huyện Sơn Dương), muốn bán xe mô tô do không còn nhu cầu sử dụng, H đồng ý, sau đó H đã bán chiếc xe mô trộm cắp được cho H với giá 1.500.000 đồng (H không biết đó là tài sản trộm cắp mà có), H sử dụng số tiền bán xe đi mua chất ma túy về sử dụng và chi tiêu cá nhân hết.

Trong ngày 19/8/2020, H sang huyện Đ, tỉnh Thái Nguyên để tìm mua và sử dụng chất ma túy, tại đấy Hoàng có gặp và quen biết Ma Khánh B, (cũng là người nghiện chất ma túy), qua nói chuyện H hỏi B “Bên này có chỗ nào bán được xe mô tô không”, B nói “Có quen một số chỗ mua xe cũ”, H nói “Lúc nào tôi trộm cắp được xe mô tô thì ông đưa tôi đi bán”, B đồng ý và chỉ cho H biết vị trí nhà B, mục đích để khi H trộm cắp được xe sẽ đến gặp B đưa đi bán, B còn hướng dẫn H cách rút, đấu nối dây điện xe khi không có chìa khóa điện, để khởi động nổ được máy khi trộm cắp. Sau khi thống nhất với B, khoảng 15 giờ ngày 21/8/2020, H một mình đi bộ đến khu vực thôn T, xã T, huyện Sơn Dương mục đích tìm trộm cắp xe mô tô, khi tới đoạn đường dân sinh (dưới chân đồi chè, hướng từ huyện Định Hóa đi huyện Sơn Dương), phát hiện bên phải đường (cách đường nhựa khoảng 200m) có 01 xe mô tô nhãn hiệu POMUSPACYAN, biển kiểm soát 22H4-3603 của chị Ma Thị Ng, có cắm chìa khóa ở ổ điện xe, không có người trông giữ, H đến nổ máy, trộm cắp xe và điều khiển đi sang nhà B, khi đến nhà B, H nói “tôi vừa trộm cắp được chiếc xe này” và bảo B đưa đi bán, B đồng ý, sau đó B đưa H đến nhà ông Đỗ Văn M (trú thôn B, xã B, huyện Đ), bán chiếc xe trộm cắp trên cho M giá 500.000 đồng (ông M không biết tài sản trộm cắp mà có), số tiền bán xe H và B đi mua chất ma túy 300.000 đồng để cùng nhau sử dụng, còn 200.000 đồng H tự sử dụng chi tiêu cá nhân hết.

Khong 14 giờ 00 phút ngày 22/8/2020, H tiếp tục đến khu vực thôn T, xã T, huyện Sơn Dương tìm trộm cắp xe mô tô, tại đấy H thấy có 01 xe mô tô nhãn hiệu HONDA WAVE, biển kiểm soát 22S1-305.68 của anh Phùng Văn H (trú thôn K, xã T, huyện S, tỉnh Tuyên Quang) để bên phải đường (hướng tỉnh Thái Nguyên đi Tuyên Quang), không người trông giữ, xe không có chìa khóa điện, H đi đến dùng tay bẻ cụm đèn trước của xe ra, tháo rắc, đấu dây điện và khởi động nổ được xe, H trộm cắp chiếc xe đó và điều khiển sang nhà B để đem bán, gặp B, H nói “Tôi vừa trộm cắp được chiếc xe này, ông đưa tôi đi bán”, B đồng ý, sau đó đưa H đến nhà anh Dương Văn H, B trực tiếp vào thỏa thuận và bán chiếc xe do H trộm cắp được cho H giá 2.500.000 đồng, bán được xe, H cho B 200.000 đồng và cùng B sử dụng 1.000.000 đồng đi mua chất ma túy về cùng nhau sử dụng, còn 1.300.000 đồng H sử dụng chi tiêu cá nhân hết.

Tại Kết luận định giá số 93, 94/KL-HĐĐGTSTTHS ngày 24/8/2020 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự huyện Sơn Dương, kết luận: 01 xe mô tô nhãn hiệu HONDA WAVE, biển kiểm soát 22S1-305.68 bị trộm cắp ngày 22/8/2020, có giá trị 13.600.000 đồng và 01 xe mô tô nhãn hiệu POMUSPACYAN, biển kiểm soát 22H4-3603 bị trộm cắp ngày 21/8/2020, có giá trị 1.100.000 đồng.

Tại Kết luận định giá số 103/KL-HĐĐGTSTTHS ngày 08/9/2020 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự huyện Sơn Dương, kết luận: 01 xe mô tô nhãn hiệu ESPERO, biển kiểm soát 22AA-035.87 bị trộm cắp ngày 11/8/2020, có giá trị 7.083.750 đồng.

03 xe mô tô do Hoàng trộm cắp, có tổng giá trị 21.783.750đ (Hai mươi mốt triệu bảy trăm tám mươi ba nghìn bảy trăm năm mươi đồng).

Tại Cáo trạng số 104/CT-VKSSD, ngày 15/9/2020 Viện kiểm sát nhân dân huyện Sơn Dương đã truy tố Đặng Văn H, Ma Khánh B về tội “Trộm cắp tài sản” theo quy định tại khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa, bị cáo thành khẩn khai nhận hành vi phạm tội của mình như nội dung cáo trạng đã truy tố, nhận thức được hành vi của mình là vi phạm pháp luật.

Tại phiên tòa, Kiểm sát viên giữ quyền công tố giữ nguyên quyết định truy tố đối với bị cáo và đề nghị:

- Tuyên bố: Bị cáo Đặng Văn H, Ma Khánh B phạm tội: “Trộm cắp tài sản”.

- Áp dụng: khoản 1 Điều 173; điểm g khoản 1 Điều 52; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 58; Điều 38 Bộ luật Hình sự.

Xử phạt: Bị cáo Đặng Văn H từ 21 tháng đến 24 tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày bị cáo bị bắt tạm giam (27/8/2020).

- Áp dụng: khoản 1 Điều 173; đoạn 1 điểm h khoản 1 Điều 52; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 58; Điều 38 Bộ luật Hình sự.

Xử phạt: Bị cáo Ma Khánh B từ 15 tháng đến 18 tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày bị cáo bị bắt tạm giam (25/8/2020).

Không đề nghị hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với các bị cáo.

Ngoài ra đại diện Viện kiểm sát còn đề nghị HĐXX xem xét, giải quyết phần dân sự, xử lý vật chứng, khoản tiền án phí và tuyên quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.

Bị cáo, người bị hại, người liên quan không có ý kiến tranh luận với luận tội của Viện kiểm sát, đề nghị HĐXX xem xét giảm nhẹ mức án cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về nội dung vụ án:

Quá trình điều tra và tại phiên tòa, các bị cáo đã thành khẩn khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình phù hợp với nội dung bản cáo trạng Viện kiểm sát đã truy tố, các bị cáo nhận thức được hành vi của mình là vi phạm pháp luật và đề nghị HĐXX xem xét cho các bị cáo hưởng mức án nhẹ nhất.

Ngoài lời khai nhận của các bị cáo, hành vi phạm tội của các bị cáo còn được chứng minh bằng toàn bộ những tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án.

Hội đồng xét xử có đủ cơ sở để kết luận:

Trong các ngày 11, 21 và 22/8/2020, tại thôn T, xã T, huyện S, tỉnh Tuyên Quang, Đặng Văn H đã thực hiện hành vi trộm cắp 03 xe mô tô; Ma Khánh B hứa hẹn trước và giúp H tiêu thụ tài sản trộm cắp, nên đồng phạm với vai trò giúp sức cho Hoàng, cụ thể:

- Khoảng 08 giờ 30 phút ngày 11/8/2020, tại thôn Tân Lập, xã Tân Trào, huyện Sơn Dương, tỉnh Tuyên Quang, Đặng Văn H đã có hành vi trộm cắp 01 xe mô tô nhãn hiệu ESPERO, biển kiểm soát 22A-035.87, có giá trị 7.083.750 đồng của bà Trịnh Thị S, trú tại thôn Đ, xã T, huyện S, tỉnh Tuyên Quang, H đem bán cho Đinh Văn H được 1.500.000đ.

- Khoảng 15 giờ 00 phút ngày 21/8/2020, tại thôn Tân Lập, xã Tân Trào, huyện Sơn Dương, tỉnh Tuyên Quang, Đặng Văn H đã có hành vi trộm cắp 01 xe mô tô nhãn hiệu POMUSPACYAN, biển kiểm soát 22H4-3603, có giá trị 1.100.000 đồng của chị Ma Thị N, trú tại thôn T, xã T, huyện S, sau đó đem đến để Ma Khánh B đưa đi bán cho Đỗ Văn M, trú tại thôn B, xã B, huyện Đ, tỉnh Thái Nguyên.

- Khoảng 14 giờ 00 phút ngày 22/8/2020, tại thôn T, xã T, huyện Sơn Dương, Đặng Văn H đã có hành vi trộm cắp 01 xe mô tô nhãn hiệu HONDA WAVE, biển kiểm soát 22S1-305.68, có giá trị 13.600.000 đồng của anh Phùng Văn H, trú tại thôn K, xã T, huyện S, tỉnh Tuyên Quang, sau đó đem đến để Ma Khánh B đưa đi bán cho Dương Văn H, trú tại xóm Q, xã T, huyện Đ, tỉnh Thái Nguyên.

Tổng giá trị tài sản trộm cắp đối với Đặng Văn H là 21.783.750đ (Hai mươi mốt triệu, bảy trăm tám mươi ba nghìn, bảy trăm năm mươi đồng), trong đó đối với Ma Khánh B đồng phạm cùng Hoàng là 14.700.000đ (Mười bốn triệu bảy trăm nghìn đồng).

Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân huyện Sơn Dương truy tố Đặng Văn H, Ma Khánh B về tội “Trộm cắp tài sản” là đúng người, đúng tội. Tội phạm và hình phạt được quy định tại khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự.

[2] Hành vi phạm tội của các bị cáo là hành vi nguy hiểm cho xã hội, trực tiếp xâm phạm vào quyền sở hữu đối với tài sản của người khác, đó là hành vi nguy hiểm cho xã hội và gây mất an ninh trật tự tại địa phương. Vì vậy cần phải có mức án tương xứng với nhân thân, hành vi phạm tội của từng bị cáo để răn đe, giáo dục các bị cáo trở thành người công dân tốt, có ích cho gia đình và xã hội, đồng thời phòng ngừa tội phạm chung.

Hành vi của các bị cáo là đồng phạm giản đơn, bị cáo H là người khởi xướng, trực tiếp thực hiện hành vi trộm cắp tài sản, bị cáo B là người giúp sức cho bị cáo H tiêu thụ tài sản trộm cắp được.

[3] Về nhân thân, tình tiết giảm nhẹ, tăng nặng trách nhiệm hình sự và đường lối xử lý đối với bị cáo:

Về nhân thân: Bị cáo H chưa bị xử lý vi phạm pháp luật gì. Bị cáo Bình bị UBND xã P, huyện Đ, tỉnh Thái Nguyên áp dụng biện pháp giáo dục tại xã đối với người nghiện ma túy tại gia đình, thời hạn 06 tháng kể từ ngày 13/4/2020 đến ngày 13/10/2020, bị cáo chưa chấp hành xong.

Về tình tiết tăng nặng: Bị cáo Đặng Văn H phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự “Phạm tội 02 lần trở lên” theo quy định tại điểm g khoản 1 Điều 52 Bộ luật Hình sự. Bị cáo Ma Khánh B có 01 tiền án tại Bản án số 42/2018/HS-ST ngày 29/11/2018 của Tòa án nhân dân huyện Đ, tỉnh Thái Nguyên xử phạt 18 tháng tù về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy, bị cáo chấp hành xong hình phạt tù ngày 08/01/2020, bị cáo chưa được xóa án tích lại tiếp tục phạm tội mới nên lần phạm tội này của bị cáo thuộc trường hợp“Tái phạm” theo quy định tại đoạn 1 điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật Hình sự.

Về tình tiết giảm nhẹ: Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa các bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải. Đây là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự khi quyết định hình phạt cần áp dụng cho các bị cáo để có mức án phù hợp.

Căn cứ vào tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội, nhân thân và các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của các bị cáo đã được phân tích ở trên, cần xem xét giảm nhẹ một phần hình phạt cho các bị cáo.

Do các bị cáo đều là người sử dụng ma túy, không có tài sản lớn nên không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với các bị cáo.

[4] Về phần dân sự:

Quá trình điều tra các bị hại Phùng Văn H, Ma Thị N, Trịnh Thị S không yêu cầu các bị cáo phải bồi thường gì; người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan Đỗ Văn M, Dương Văn H không có yêu cầu gì đối với các bị cáo nên HĐXX không xem xét.

Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan anh Đinh Văn H yêu cầu bị cáo Đặng Văn H bồi thường số tiền 2.500.000 đồng là tiền trả mua xe và sửa xe. Tại phiên tòa, bị cáo H nhất trí bồi thường cho anh H số tiền 2.500.000 đồng. Xét thấy, việc thỏa thuận giữa bị cáo Hoàng và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan Đinh Văn H là hoàn toàn tự nguyện, nội dung thỏa thuận không vi phạm điều cấm của luật và không trái đạo đức xã hội nên HĐXX công nhận sự thỏa thuận trên.

[5] Về vật chứng:

Quá trình điều tra, Cơ quan điều tra đã tạm giữ 01 xe mô tô HONDA WAVE, màu đen bạc, biển kiểm soát 22S1-305.68; 01 xe mô tô POMUSPACYAN, màu sơn nâu, biển kiểm soát 22H4-3603; 01 xe mô tô nhãn hiệu ESPERO, màu sơn xanh trắng, biển kiểm soát 22AA-035.87; 01 giấy chứng nhận đăng ký xe mô tô và 01 giấy chứng nhận bảo hiểm xe mô tô mang tên Phùng Văn H; 01 giấy đăng ký xe mang tên Trịnh Thị S. Ngày 10/9/2020, Cơ quan điều tra đã có Quyết định xử lý vật chứng số 27, trả lại toàn bộ 03 xe mô tô trên cùng các giấy tờ xe liên quan cho các chủ sở hữu hợp pháp Phùng Văn H, Ma Thị N và Trịnh Thị S. Do đó, HĐXX không xem xét.

[6] Các vấn đề khác:

Đối với Đinh Văn H, Đỗ Văn M khi mua xe mô tô không biết đó là tài sản trộm cắp mà có, cơ quan điều tra không đủ căn cứ xem xét trách nhiệm hình sự.

Đối với Dương Văn H, quá trình điều tra H khai không được mua xe mô tô mà chỉ cho B gừi nhờ xe và không biết đó là tài sản trộm cắp mà có, cơ quan điều tra không đủ căn cứ xem xét xử lý Huy.

Đối với hành vi sử dụng trái phép chất ma túy của H và B, Cơ quan điều tra đã chuyển tài liệu, hồ sơ đến Công an huyện Sơn Dương để xử phạt theo quy định.

Do đó, HĐXX không xem xét.

[7] Về tố tụng: Hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Sơn Dương, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Sơn Dương, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[8] Về án phí và quyền kháng cáo bản án:

Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm. Bị cáo và những người tham gia tố tụng khác được quyền kháng cáo bản án theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ: Các Điều 136, 331 và 333 Bộ luật Tố tụng hình sự;

Căn cứ: khoản 1 Điều 173; điểm g khoản 1 Điều 52; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 58; Điều 38 Bộ luật Hình sự đối với bị cáo Đặng Văn Hoàng.

Căn cứ: khoản 1 Điều 173; đoạn 1 điểm h khoản 1 Điều 52; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 58; Điều 38 Bộ luật Hình sự đối với bị cáo Ma Khánh Bình.

Áp dụng: Điều 48 Bộ luật hình sự; các Điều 584; 585; 586; 589 Bộ luật Dân sự.

Nghị quyết 326/2016/NQ-UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Toà án;

Tuyên bố: Bị cáo Đặng Văn H, Ma Khánh B phạm tội: “Trộm cắp tài sản”.

1. Về hình phạt:

Xử phạt: Bị cáo Đặng Văn H 01 (một) năm 09 (chín) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày bị cáo bị bắt tạm giam (27/8/2020).

Bị cáo Ma Khánh B 01 (một) năm 03 (ba) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày bị cáo bị bắt tạm giam (25/8/2020).

2. Về dân sự: Bị cáo Đặng Văn H có nghĩa vụ trả cho anh Đinh Văn H số tiền 2.500.000đ (Hai triệu năm trăm nghìn đồng).

Khoản tiền phải trả, kể từ ngày bản án có hiệu lực pháp luật và anh Huynh có đơn yêu cầu thi hành án cho đến khi thi hành xong khoản tiền trên, nếu bị cáo chậm bồi thường thì hàng tháng còn phải chịu thêm khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất quy định tại khoản 2 Điều 468 Bộ luật Dân sự.

3. Về án phí và quyền kháng cáo: Bị cáo H phải nộp 200.000đ (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm và 300.000đ án phí dân sự sơ thẩm, tổng cộng 500.000đ (năm trăm nghìn đồng).

Bị cáo B phải nộp 200.000đ án phí hình sự sơ thẩm.

Bị cáo, người bị hại, người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 (Mười lăm) ngày kể từ ngày tuyên án.

Trong trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6,7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự”.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

296
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 93/2020/HS-ST ngày 28/09/2020 về tội trộm cắp tài sản

Số hiệu:93/2020/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Sơn Dương - Tuyên Quang
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 28/09/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về