Bản án 93/2020/HS-ST ngày 18/11/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN HẢI CHÂU, THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG

BẢN ÁN 93/2020/HS-ST NGÀY 18/11/2020 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 18 tháng 11 năm 2020 tại trụ sở Tòa án nhân dân quận Hải Châu xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 84/2020/TLST-HS ngày 01 tháng 10 năm 2020 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 92/2020/QĐXXST-HS ngày 04 tháng 11 năm 2020 đối với bị cáo:

Đoàn Ngọc A (Tên gọi khác: B); sinh ngày: 19/11/1997 tại Quảng Nam; Nơi cư trú: 49 M, phường T, quận H, thành phố Đà Nẵng; nghề nghiệp: Lao động phổ thông; trình độ văn hoá (học vấn): 7/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Thiên chúa; quốc tịch: Việt Nam; con ông Đoàn Ngọc A, sinh năm 1974 và bà Trần Thị Quỳnh L, sinh năm: 1979; vợ là Trương Thị C, sinh năm: 1991, có 01 con Đoàn Ngọc Thùy D sinh năm 2019. Tiền án: Không, tiền sự: Ngày 11/9/2019, bị Công an phường H xử phạt vi phạm hành chính 750.000 đồng về hành vi “sử dụng trái phép chất ma túy”.

Bị cáo bị tạm giữ tạm giam tại Nhà tạm giữ Công an quận Hải Châu từ ngày 10/6/2020, có mặt tại phiên tòa.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án:

Bà Trương Thị C, sinh năm: 1991. Địa chỉ: 49 M, phường T, quận H, thành phố Đà Nẵng, có mặt.

Bà Trần Thị Hoài T1, sinh năm: 1992. Địa chỉ: Tổ 36 phường K, quận C, thành phố Đà Nẵng, vắng mặt.

Người làm chứng: Ông Huỳnh Thống N, sinh năm: 1962. Địa chỉ: 49 P, phường H, quận L, thành phố Đà Nẵng, vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khong 19 giờ 00 phút ngày 08.6.2020, do có nhu cầu sử dụng ma túy, qua sự giới thiệu của người tên “Đỏ”, A dùng số điện thoại 0778.560.403 gọi đến số điện thoại 0906.454.541 của một người đàn ông ở đường P, quận L, thành phố Đà Nẵng hỏi mua 1.000.000 đồng ma túy. Người này đồng ý bán và yêu cầu A chuyển tiền vào số điện thoại 0906.454.541. A đến một cửa hàng điện thoại FPT trên đường T (không nhớ rõ địa chỉ) để chuyển tiền. Sau khi A chuyển tiền xong thì gọi cho người đàn ông trên và được hướng dẫn đến trước nhà số 253 P, quận L, thành phố Đà Nẵng để lấy ma túy. Khi đến địa chỉ trên, A tìm thấy ma túy được gói trong tờ giấy màu trắng để dưới lề đường. A cầm bọc giấy trên về nhà tại 49 M, phường T, quận H, thành phố Đà Nẵng mở ra kiểm tra thấy có 05 gói ma túy, A lấy ra một ít để sử dụng. Khoảng 18 giờ 00 phút ngày 10.6.2020, A gọi điện cho người bạn tên T2 ở Chung cư 7 rủ T2 sử dụng ma túy và T2 đồng ý. A để 01 gói ma túy ở nhà và cất giấu 04 gói ma túy trong người, điều khiển xe môtô nhãn hiệu Yamaha Sirius, màu trắng - đen, BKS 43M1-8261 đi qua nhà T2, khi đến trước nhà số 125 đường X thì bị Lực lượng phòng chống ma túy và tội phạm – Ban Chỉ huy Biên phòng Cửa khẩu Cảng Đà Nẵng bắt quả tang Đoàn Ngọc A đang có hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy.

Lúc 20 giờ 10 phút cùng ngày, tiến hành khám xét khẩn cấp chỗ ở của Đoàn Ngọc A tại nhà số 49 M, phường T, quận H, thành phố Đà Nẵng. Qua khám xét thu giữ trong ngăn cuối cùng của tủ quần áo, ở góc bên phải cạnh cửa phòng ngủ của A 01 (một) gói ni lông kích thước 3,5cm x 3,5cm chứa tinh thể màu trắng.

Vật chứng thu giữ của Đoàn Ngọc A:

- 04 (bốn) gói ni lông (trong đó: 02 gói kích thước 03cm x 03cm; 01 gói kích thước 03cm x 01cm; 01 gói kích thước 02cm x 01cm) chứa tinh thể màu trắng. Niêm phong ký hiệu “A1”.

- 01 (một) gói ni lông kích thước 3,5cm x 3,5cm chứa tinh thể màu trắng.

Niêm phong ký hiệu “A2”.

- 01 (một) ĐTDĐ Samsung A20 màu trắng đen, số Imei1 358587104900968/01, số Imei2 358588104900966/01; lắp 02 sim điện thoại: sim 1 số 0932.548.847, sim 2 số 0778.560.403.

- 01 (một) xe mô tô nhãn hiệu Yamaha Sirius, màu trắng - đen, BKS: 43M1- 8261, số khung: 399942, số máy: 399998.

- 01 (một) chứng minh nhân dân mang tên Đoàn Ngọc A.

Theo Kết luận giám định số 182/GĐ-MT ngày 15.6.2020 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an thành phố Đà Nẵng, kết luận: Tinh thể màu trắng trong các gói ni lông trong các bì niêm phong ký hiệu A1, A2 gửi giám định là ma túy, loại Methamphetamine, khối lượng tinh thể mẫu A1: 0,708 gam; mẫu A2: 0,355 gam.

Tại Bản cáo trạng số 87/CT-VKS ngày 28/9/2020 của Viện kiểm sát nhân dân quận Hải Châu, thành phố Đà Nẵng đã truy tố bị cáo Đoàn Ngọc A về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự.

Tại phiên toà hôm nay, đại diện Viện kiểm sát nhân dân quận Hải Châu giữ nguyên cáo trạng đã truy tố đối với bị cáo, đề nghị tuyên bố bị cáo Đoàn Ngọc A phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” và đề nghị HĐXX áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38 Bộ luật hình sự xử phạt Đoàn Ngọc A từ 18 đến 24 tháng tù.

Về xử lý tang vật: Đề nghị HĐXX áp dụng Điều 47 Bộ luật hình sự và Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự tuyên:

Tịch thu tiêu hủy 0,556 gam mẫu A1; 0,243 gam mẫu A2 và toàn bộ vỏ bao gói mẫu, hoàn trả sau giám định.

Tịch thu sung công quỹ Nhà nước 01 (một) ĐTDĐ Samsung A20 màu trắng đen, số Imei1 358587104900968/01, số Imei2 358588104900966/01; lắp 02 sim điện thoại: sim 1 số 0932.548.847, sim 2 số 0778.560.403.

Tại phiên tòa, quá trình xét hỏi bị cáo Đoàn Ngọc A thừa nhận hành vi phạm tội như trong bản cáo trạng đã truy tố các bị cáo.

Bà Trương Thị C trình bày: Chiếc xe môtô nhãn hiệu Yamaha Sirius, màu trắng - đen, BKS 43M1-8261 là tài sản của bà C mua lại của bà Trần Thị Hoài T1, bà không biết A dùng xe này để tàng trữ ma túy. Nay bà đã nhận lại chiếc xe này và 01 giấy chứng minh nhân dân của Đoàn Ngọc A, bà không có yêu cầu gì.

Bị cáo nói lời nói sau cùng: Trong thời gian bị tạm giam, bị cáo biết hành vi của mình là sai trái, mong HĐXX xem xét giảm nhẹ hình phạt sớm về với gia đình.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan cảnh sát điều tra Công an quận Hải Châu, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân quận Hải Châu, kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Qua quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đều hợp pháp.

[2] Lời khai của bị cáo Đoàn Ngọc A tại phiên tòa phù hợp với chứng cứ lời khai tại cơ quan điều tra và các tài liệu chứng cứ có trong hồ sơ vụ án. Do đó có cơ sở để xác định: Khoảng 18 giờ 00 phút ngày 10.6.2020, tại trước nhà số 125 đường X, phường T, quận H, thành phố Đà Nẵng, Đoàn Ngọc A bị phát hiện, bắt quả tang đang tàng trữ trái phép 1,063 gam ma túy loại Methamphetamine nhằm mục đích để sử dụng. Hành vi của Đoàn Ngọc A đã đủ yếu tố cấu thành tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự. Viện kiểm sát nhân dân quận Hải Châu, thành phố Đà Nẵng truy tố bị cáo Đoàn Ngọc A là có cơ sở và đúng quy định của pháp luật.

[3]Xét hành vi, tính chất, mức độ phạm tội của các bị cáo thì thấy:

Do muốn có ma túy sử dụng nên Đoàn Ngọc A đã mua 05 gói ma túy, đến ngày 10.6.2020, A mang theo 04 gói cất giấu trong người đến nhà bạn để cùng sử dụng và cất giấu trong nhà 01 gói. Do vậy bị cáo phải chịu trách nhiệm hình sự về hành vi phạm tội của mình. Hành vi của các bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm chế độ quản lý độc quyền của Nhà nước về chất ma túy. Bị cáo biết rõ hành vi của mình là vi phạm pháp luật nhưng vẫn thực hiện với lỗi cố ý, xâm phạm trật tự an toàn xã hội, gây hoang mang, bức xúc trong nhân dân. HĐXX xét thấy cần phải xét xử một mức hình phạt tương xứng với hành vi phạm tội của các bị cáo và cần thiết cách ly bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian để răn đe, giáo dục và phòng ngừa chung.

[4]Xét nhân thân của bị cáo thì thấy:

Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo A đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải về hành vi của mình là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự. HĐXX sẽ xem xét giảm nhẹ cho các bị cáo khi lượng hình.

Đối với 01 chứng minh nhân dân mang tên Đoàn Ngọc A, bà Trương Thị C là vợ A đã nhận lại giấy tờ trên, bà C và A không có yêu ý kiến gì nên HĐXX không xem xét giải quyết.

Đối với 01 xe mô tô nhãn hiệu Yamaha Sirius màu trắng- đen, biển kiểm soát 43M1-8261, số khung 399942, số máy 399998 do bà Trần Thị Hoài T1 đứng tên sở hữu. Bà T1 khai bán chiếc xe này cho bà Trương Thị C đã lâu nhưng đến ngày 08.7.2020 mới làm thủ tục mua bán xe theo quy định của pháp luật. Ngày 10.6.2020, A sử dụng chiếc xe này làm phương tiện đi lại. Do đó, Cơ quan điều tra trả lại chiếc xe này cho bà C là có căn cứ.

Đối với người tên Đỏ là người giới thiệu người bán ma túy cho A, đến nay chưa xác định được lai lịch. Đối với Nguyễn Xuân T2 là người rủ A cùng sử dụng ma túy và mang ma túy đến nhà T2 ngày 10.6.2020, qua xác minh hiện nay T2 không có mặt tại địa phương. Đối với người có số điện thoại 0906.454541 A chuyển tiền để mua ma túy, đến nay chưa xác định được chủ thuê bao số điện thoại này. Cơ quan CSĐT Công an quận Hải Châu tiếp tục điều tra, làm rõ và xử lý sau.

[5]Về Xử lý tang vật: Áp dụng Điều 47 Bộ luật hình sự, Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự, HĐXX xử lý như sau:

Đối với 0,556 gam mẫu A1; 0,243 gam mẫu A2 và toàn bộ vỏ bao gói mẫu, hoàn trả sau giám định là vật cấm lưu hành, do đó tuyên tịch thu và tiêu hủy.

Đối với nước 01 (một) ĐTDĐ Samsung A20 màu trắng đen, số Imei1 358587104900968/01, số Imei2 358588104900966/01; lắp 02 sim điện thoại: sim 1 số 0932.548.847, sim 2 số 0778.560.403 của Đoàn Ngọc A, A sử dụng điện thoại này liên lạc mua ma túy để tàng trữ sử dụng nên HĐXX tuyên tịch thu sung công quỹ Nhà nước.

Những vật chứng trên, hiện Chi cục Thi hành án dân sự quận Hải Châu đang tạm giữ theo biên bản giao nhận vật chứng ngày 01/10/2020.

Xét những đề nghị của đại diện Viện kiểm sát nhân dân quận Hải Châu tại phiên tòa hôm nay là có cơ sở, HĐXX chấp nhận.

Án phí hình sự sơ thẩm bị cáo phải chịu 200.000 đồng.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 249; Điều 38; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự.

1. Tuyên bố: Bị cáo Đoàn Ngọc A phạm tội: “Tàng trữ trái phép chất ma túy".

2. Xử phạt: Đoàn Ngọc A 18 (Mười tám) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt tạm giữ, ngày 10/6/2020.

3. Về xử lý vật chứng: Căn cứ Điều 47 Bộ luật hình sự, Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự, tuyên:

Tịch thu tiêu hủy 0,556 gam mẫu A1; 0,243 gam mẫu A2 và toàn bộ vỏ bao gói mẫu, hoàn trả sau giám định.

Tịch thu sung công quỹ Nhà nước 01 (một) ĐTDĐ Samsung A20 màu trắng đen, số Imei1 358587104900968/01, số Imei2 358588104900966/01; lắp 02 sim điện thoại: sim 1 số 0932.548.847, sim 2 số 0778.560.403.

Những vật chứng trên Chi cục Thi hành án dân sự quận Hải Châu đang tạm giữ theo biên bản giao nhận vật chứng ngày 01/10/2020.

4. Về án phí: Bị cáo Đoàn Ngọc A phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

5. Về thời hạn kháng cáo: Báo cho bị cáo, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án có mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án sơ thẩm. Riêng người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án vắng mặt có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày, kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được tống đạt hợp lệ.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6, 7 và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

239
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 93/2020/HS-ST ngày 18/11/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:93/2020/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận Hải Châu - Đà Nẵng
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 18/11/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về