Bản án 93/2020/HNGĐ-ST ngày 28/09/2020 về tranh chấp ly hôn, nuôi con

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ THỦ DẦU MỘT, TỈNH BÌNH DƯƠNG

BẢN ÁN 93/2020/HNGĐ-ST NGÀY 28/09/2020 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN, NUÔI CON 

Ngày 28 tháng 9 năm 2020, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Thủ Dầu Một xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 308/2020/TLST-HNGĐ ngày 16 tháng 7 năm 2020 về việc “tranh chấp ly hôn, nuôi con”, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 132/2020/QĐXXST-HNGĐ ngày 24 tháng 8 năm 2020 và Quyết định hoãn phiên tòa số 136/2020/QĐST-HNGĐ ngày 09 tháng 9 năm 2020, giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Bà Cao Thị N, sinh năm 1991; Địa chỉ: Số M, đường ĐX A, tổ D, khu phố B, phường Đ, Thành phố T, tỉnh Bình Dương.

- Bị đơn: Ông Nguyễn Minh T, sinh năm 1991; Địa chỉ: Số M, đường ĐX A, tổ D, khu phố B, phường Đ, Thành phố T, tỉnh Bình Dương.

NỘI DUNG VỤ ÁN

- Theo đơn khởi kiện ngày 15/6/2020, lời khai trong quá trình giải quyết nguyên đơn bà Cao Thị N trình bày:

- Về quan hệ hôn nhân: Bà và ông Nguyễn Minh T chung sống với nhau có tiến hành đăng ký kết hôn tại UBND xã V, huyện T, tỉnh Hà Tĩnh vào năm 2015. Hôn nhân giữa bà và ông T là hoàn toàn tự nguyện.

Trong quá trình chung sống vợ chồng bà có nhiều bất đồng quan điểm dẫn đến mâu thuẫn, hôn nhân không có hạnh phúc, nguyên nhân là do không hợp nhau. Càng về sau, mâu thuẫn vợ chồng càng trở nên nghiêm trọng, không thể dung hòa được. Hiện tình cảm vợ chồng giữa bà và ông T không còn, nên bà đề nghị Tòa án giải quyết cho bà được ly hôn với ông Nguyễn Minh T.

- Về con chung: Bà và ông Nguyễn Minh T có 01 con chung cháu Nguyễn Cao Kỳ D, sinh ngày 01/11/2017. Khi ly hôn, bà đề nghị được nuôi con chung.

Về cấp dưỡng nuôi con: Không yêu cầu ông T cấp dưỡng nuôi con.

- Về tài sản chung, nợ chung: Không tranh chấp, không yêu cầu Tòa án giải quyết.

- Bị đơn ông Nguyễn Minh T: Đã được Tòa án tống đạt thông báo thụ lý vụ án hợp lệ, nhưng ông T không có văn bản trình bày ý kiến đối với yêu cầu ly hôn của bà Cao Thị N.

Quá trình giải quyết, Tòa án đã ra thông báo về phiên họp kiểm tra việc giao nộp tiếp cận công khai chứng cứ và hòa giải, quyết định xét xử, quyết định hoãn phiên tòa đã niêm yết hợp lệ cho bị đơn. Tuy nhiên, ông T đều vắng mặt không có lý do.

Tại phiên tòa:

Nguyên đơn có đơn yêu cầu giải quyết vắng, bị đơn ông Nguyễn Minh T vắng mặt không có lý do.

Đại diện Viện Kiểm sát nhân dân thành phố Thủ Dầu Một phát biểu như sau:

+ Về tuân theo pháp luật: Từ khi thụ lý vụ án đến khi khai mạc phiên tòa sơ thẩm, Thẩm phán, Thư ký đã tiến hành tố tụng đúng quy định của pháp luật, nguyên đơn đã thực hiện đúng quyền và nghĩa vụ tố tụng của mình theo quy định pháp luật. Riêng bị đơn không thực hiện đúng quy định tại Điều 70, 72 của Bộ luật Tố tụng dân sự. Kiểm sát viên không kiến nghị khắc phục gì thêm. Tại phiên tòa sơ thẩm, Hội đồng xét xử đã thực hiện đầy đủ thẩm quyền theo quy định đối với những người tiến hành tố tụng. Kiểm sát viên không kiến nghị khắc phục gì thêm.

+ Về việc giải quyết vụ án: Căn cứ vào tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án, đề nghị Hội đồng xét xử quyết định chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của bà Cao Thị N về việc ly hôn, tranh chấp nuôi con.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

[1] Về thủ tục tố tụng: Bị đơn ông Nguyễn Minh T đã được triệu tập hợp lệ đến lần thứ 2 để tham gia phiên tòa nhưng ông T vẫn vắng mặt không có lý do. Bà Cao Thị N có đơn đề nghị Tòa án giải quyết vắng mặt. Vì vậy, Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt đối với ông T và bà N là phù hợp với quy định tại điểm b khoản 2 Điều 227, Điều 228 Bộ luật Tố tụng dân sự.

[2] Xét quan hệ hôn nhân giữa bà Cao Thị N và ông Nguyễn Minh T: Bà N, ông T chung sống với nhau và có đăng ký kết hôn vào ngày 22/10/2015 tại xã V, huyện T, tỉnh Hà Tĩnh, được pháp luật công nhận là hôn nhân hợp pháp.

[3] Theo bà N trình bày: Vợ chồng bà đã nhiều lần phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân là do vợ chồng không hợp nhau, bà đã nhiều lần hàn gắn nhưng nay mâu thuẫn vợ chồng đã quá trầm trọng. Vì vậy, bà N có nguyện vọng được ly hôn với ông T để ổn định cuộc sống.

Trong quá trình giải quyết vụ án, ông T đã được triệu tập hợp lệ đến tham gia phiên tòa, tham gia hòa giải nhưng ông T vẫn vắng mặt không có lý do, điều đó cho thấy bản thân ông đã tự từ bỏ quyền và nghĩa vụ của mình và không có thiện chí trong việc muốn đoàn tụ gia đình với bà N.

[4] Nhận thấy, mâu thuẫn vợ chồng giữa bà N, ông T là trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được.

Do đó, yêu cầu xin ly hôn của bà N là hoàn toàn có căn cứ, phù hợp với quy định tại các Điều 51, 56 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014.

[5] Về con chung: Cháu Nguyễn Cao Kỳ D, sinh ngày 01/11/2017. Con chung hiện sống cùng với mẹ là bà N, bà N yêu cầu được nuôi con chung. Quá trình giải quyết vụ án ông T cũng không có ý kiến gì về việc yêu cầu được nuôi con của bà N. Vì vậy, yêu cầu nuôi con của bà N là có cơ sở để chấp nhận.

-Về cấp dưỡng nuôi con: Không yêu cầu giải quyết.

[6] Về tài sản chung, nợ chung: Các đương sự không tranh chấp, không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Từ những phân tích nêu trên, Hội đồng xét xử nhận thấy có căn cứ chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà Cao Thị N đối với ông Nguyễn Minh T.

Quan điểm của vị đại diện Viện kiểm sát phù hợp với những nhận định trên, nên có căn cứ để Hội đồng xét xử chấp nhận.

Về án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm, bà Cao Thị N phải nộp theo quy định pháp luật Vì các lẽ trên, Căn cứ vào:

QUYẾT ĐỊNH

- Khoản 1, Điều 28; điểm a, khoản 1, Điều 35; điểm a, khoản 1, Điều 39; các Điều 227, 266, 267 và Điều 273 của Bộ luật Tố tụng dân sự;

- Các Điều 56, 58, 81, 82, 83 và 84 của Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014;

- Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án;

1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà Cao Thị N đối với ông Nguyễn Minh T về việc “tranh chấp ly hôn, nuôi con” như sau:

- Về quan hệ hôn nhân: Bà Cao Thị N được ly hôn với ông Nguyễn Minh T.

- Về con chung: Bà Cao Thị N được quyền trực tiếp nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục con chung cháu Nguyễn Cao Kỳ D, sinh ngày 01/11/2017.

- Về cấp dưỡng nuôi con: Không yêu cầu, nên không đặt ra xem xét giải quyết.

Sau khi ly hôn, người không trực tiếp nuôi con có quyền thăm nom con;

không ai được quyền cản trở. Vì lợi ích của con chưa thành niên, theo yêu cầu của một hoặc cả hai bên, Tòa án có thể quyết định thay đổi người trực tiếp nuôi con và mức cấp dưỡng nuôi con.

- Về tài sản chung, nợ chung: Các đương sự không yêu cầu giải quyết, nên Hội đồng xét xử không đặt ra xem xét.

2. Về án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm: Bà Cao Thị N phải nộp 300.000 đồng (ba trăm ngàn đồng), được khấu trừ vào tạm ứng án phí đã nộp theo Biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí số AA/2016/0050112 ngày 30/6/2020 của Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Thủ Dầu Một, tỉnh Bình Dương.

3. Bà Cao Thị N, ông Nguyễn Minh T vắng mặt tại phiên tòa được quyền kháng cáo Bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được Bản án hoặc Bản án được niêm yết theo quy định.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

216
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 93/2020/HNGĐ-ST ngày 28/09/2020 về tranh chấp ly hôn, nuôi con

Số hiệu:93/2020/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Thủ Dầu Một - Bình Dương
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 28/09/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về