Bản án 93/2020/HNGĐ-ST ngày 24/08/2020 về ly hôn, tranh chấp nuôi con

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN PHÚ TÂN, TỈNH CÀ MAU

BẢN ÁN 93/2020/HNGĐ-ST NGÀY 24/08/2020 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON

Ngày 24 tháng 8 năm 2020, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Phú Tân, tỉnh Cà Mau xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 155/2020/TLST-HNGĐ ngày 04 tháng 6 năm 2020 về việc “ly hôn, tranh chấp về nuôi con” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 201/2020/QĐXXST-HNGĐ, ngày 13 tháng 7 năm 2020 giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Bà Lê Thị H, sinh năm 1982 (có mặt). Nơi cư trú: Khóm 4, thị trấn S, huyện T, tỉnh C.

- Bị đơn: Ông Nguyễn Văn T, sinh năm 1987 (vắng mặt). Nơi cư trú: Ấp C, xã P, huyện P, tỉnh C.

NỘI DUNG VỤ ÁN

- Theo đơn khởi kiện ngày 29 tháng 5 năm 2020 và tại phiên tòa nguyên đơn bà Lê Thị H trình bày: Bà và ông Nguyễn Văn T tự nguyện chung sống với nhau vào năm 2017, đến năm 2019 có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã P, huyện P, tỉnh C. Trong quá trình chung sống vợ chồng bất đồng quan điểm, cuộc sống vợ chồng không hạnh phúc vợ chồng không còn chung sống từ cuối năm 2019 đến nay. Bà nhận thấy tình cảm vợ chồng không còn và không thể chung sống với nhau được nữa nên bà yêu cầu Tòa án giải quyết cho bà được ly hôn với ông Nguyễn Văn T. Trong quá trình chung sống bà và ông T có một người con chung tên Nguyễn Gia H (giới tính nam), sinh ngày 23 tháng 10 năm 2017, con chung do bà trực tiếp nuôi dưỡng. Sau khi ly hôn bà yêu cầu được trực tiếp nuôi con chung, không yêu cầu cấp dưỡng nuôi con. Về tài sản chung và nợ chung không có nên không yêu cầu Tòa án giải quyết.

- Bị đơn ông Nguyễn Văn T đã được Tòa án tống đạt hợp lệ thông báo thụ lý và các văn bản tố tụng nhưng ông T vắng mặt và không cung cấp lời khai cho Tòa án.

- Tại phiên tòa đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Phú Tân đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu của bà Lê Thị H, cho bà Lê Thị H ly hôn với ông Nguyễn Văn T. Giao người con chung tên Nguyễn Gia H cho bà H trực tiếp nuôi dưỡng.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

[1] Về thủ tục tố tụng: Bà Lê Thị H yêu cầu Tòa án giải quyết cho ly hôn với ông Nguyễn Văn T, yêu cầu được trực tiếp nuôi con chung. Do đó, đây là tranh chấp hôn nhân và gia đình về việc “Ly hôn, tranh chấp về nuôi con” nên theo quy định tại khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35; điểm a khoản 1 Điều 39 của Bộ luật tố tụng dân sự thuộc thẩm quyền của Tòa án nhân dân huyện Phú Tân, tỉnh Cà Mau. Tòa án nhân dân huyện Phú Tân, tỉnh Cà Mau thụ lý giải quyết theo thủ tục sơ thẩm là đúng thủ tục tố tụng.

[2] Về sự vắng mặt của đương sự: Ông Nguyễn Văn T là bị đơn đã được Tòa án triệu tập hợp lệ để tham gia phiên tòa lần thứ hai nhưng vẫn vắng mặt không vì sự kiện bất khả kháng hoặc trở ngại khách quan. Theo quy định tại điểm b khoản 2 Điều 227 của Bộ luật tố tụng dân sự, Tòa án xét xử vắng mặt ông Nguyễn văn Trường.

[3] Về quan hệ hôn nhân: Bà Lê Thị H với ông Nguyễn Văn T tự nguyện chung sống với nhau và có đăng ký kết hôn vào năm 2019 tại Ủy ban nhân dân xã P, huyện P, tỉnh C nên hôn nhân của bà Lê Thị H với ông Nguyễn Văn T là hợp pháp được pháp luật bảo vệ. Tại phiên tòa bà H giữ quan điểm yêu cầu ly hôn với ông Nguyễn Văn T. Tòa án đã tống đạt hợp lệ thông báo thụ lý vụ án, thông báo hòa giải và triệu tập hợp lệ ông Nguyễn Văn T nhiều lần để tham gia hòa giải và xét xử nhưng ông T vắng mặt, không tham gia hòa giải để hàn gắn tình cảm vợ chồng và không có ý kiến đối với yêu cầu của bà Lê Thị H. Bà H cho rằng trong quá trình chung sống ông T tự ý bỏ về nhà cha mẹ ruột sinh sống nên vợ chồng không còn chung sống với nhau từ cuối năm 2019 đến nay, bà không còn thương yêu ông T. Điều này cho thấy vợ chồng không còn thương yêu chăm sóc giúp đỡ lẫn nhau nên hôn nhân giữa bà Lê Thị H với ông Nguyễn Văn T đã lâm vào tình trạng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được. Do đó, Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu của bà Lê Thị H về việc yêu cầu ly hôn với ông Nguyễn Văn T.

[4] Về quyền nuôi con chung: Trong quá trình chung sống bà Lê Thị H với ông Nguyễn Văn T có một người con chung tên Nguyễn Gia H, sinh ngày 23 tháng 10 năm 2017 do bà H đang trực tiếp nuôi dưỡng, bà H yêu cầu được trực tiếp nuôi con chung. Tòa án đã tống đạt thông báo thụ lý và các văn bản cho ông T nhưng ông T vắng mặt, không có ý kiến về yêu cầu nuôi con chung của bà H. Xét thấy, con chung hiện nay do bà H trực tiếp nuôi dưỡng, con chung của bà H và ông T đến khi xét xử chưa đủ 36 tháng tuổi, giữa bà H và ông T không có thỏa thuận về việc nuôi con chung nên yêu cầu được trực tiếp nuôi con chung của bà H phù hợp với quy định tại Điều 81 của Luật hôn nhân và đình nên được Hội đồng xét xử chấp nhận. Giao người con chung tên Nguyễn Gia H, sinh ngày 23 tháng 10 năm 2017 cho bà Lê Thị H trực tiếp nuôi dưỡng. Ông Nguyễn Văn T có quyền, nghĩa vụ thăm nom, chăm sóc, giáo dục con chung không ai được cản trở. Bà H không yêu cầu cấp dưỡng nuôi con nên không xem xét.

[5] Về tài sản chung, nợ chung bà Lê Thị H, ông Nguyễn Văn T không yêu cầu Toà án giải quyết nên không xem xét.

[6] Tại phiên tòa đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Phú Tân đề nghị như nêu trên là có cơ sở nên được Hội đồng xét xử chấp nhận.

[7] Về án phí: Án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm bà H phải chịu 300.000đ, bà H đã nộp tiền tạm ứng án phí 300.000đ được chuyển thu án phí.

Vì các lẽ trên

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ khoản 1 Điều 28; điểm a khoản 1 điều 35; điểm a khoản 1 điều 39, Điều 147; khoản 1 Điều 227; Điều 271 và Điều 273 của Bộ luật Tố tụng dân sự;

Áp dụng các Điều 51; Điều 53; Điều 56; Điều 81; Điều 82 và Điều 83 của Luật hôn nhân và gia đình;

Áp dụng điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án.

- Về quan hệ hôn nhân: Cho ly hôn giữa bà Lê Thị H và ông Nguyễn Văn T.

- Về quyền nuôi con chung: Giao người con chung tên Nguyễn Gia H, sinh ngày 23 tháng 10 năm 2017 (giới tính nam) cho bà Lê Thị H trực tiếp nuôi dưỡng. Ông Nguyễn Văn T có quyền, nghĩa vụ thăm nom, chăm sóc, giáo dục con chung không ai được cản trở.

- Về án phí: Bà Lê Thị H phải chịu án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm 300.000đ, nhưng được trừ vào số tiền tạm ứng án phí đã nộp là 300.000đ theo biên lai thu tiền số 0011647 ngày 01 tháng 6 năm 2020 của Chi cục thi hành án dân sự huyện Phú Tân; bà H đã nộp đủ án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm.

Án xử sơ thẩm, bà Lê Thị H có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn mười lăm ngày kể từ ngày tuyên án. Ông Nguyễn Văn T có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn mười lăm ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết theo quy định của pháp luật.

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6,7 vpà 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự”.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

164
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 93/2020/HNGĐ-ST ngày 24/08/2020 về ly hôn, tranh chấp nuôi con

Số hiệu:93/2020/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Phú Tân - Cà Mau
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 24/08/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về