Bản án 93/2019/HS-ST ngày 29/11/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN MAI SƠN, TỈNH SƠN LA

BẢN ÁN 93/2019/HS-ST NGÀY 29/11/2019 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 29 tháng 11 năm 2019, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Mai Sơn, tỉnh Sơn La, xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 95/2019/HSST ngày 19 tháng 11 năm 2019. Theo Q định đưa vụ án ra xét xử số 95/2019/QĐXXST-HS ngày 19 tháng 11 năm 2019 đối với bị cáo:

Nguyễn Xuân Q. Tên gọi khác: Không. Sinh năm 1985. Nơi sinh: huyện Mộc Châu, tỉnh Sơn La.

Nơi đăng ký hộ khẩu thường trú và nơi ở: tiểu khu A, xã H, huyện Mai Sơn, tỉnh Sơn La. Trình độ học vấn: 09/12. Nghề nghiệp: Lao động tự do. Quốc tịch: Việt Nam. Dân tộc: Kinh. Tôn giáo: Không. Chức vụ ĐTĐP: Không. Con ông: Nguyễn Tường L, sinh năm 1937 và bà Nguyễn Thị C, sinh năm 1952. Bị cáo có vợ là Phùng Thị Thúy T, sinh năm 1987. Bị cáo có 02 con, sinh năm 2017 và năm 2018.

Tiền án: Không. Tiền sự: Không.

Bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 02.8.2019, hiện đang bị tạm giam tại Nhà tạm giữ Công an huyện Mai Sơn. Có mặt tại phiên tòa.

Người làm chứng: Anh Nguyễn Thế H, sinh năm 1983. Địa chỉ: Tiểu khu B, xã H, huyện Mai Sơn, tỉnh Sơn La.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Hồi 10 giờ ngày 02.8.2019, tổ công tác Công an huyện Mai Sơn đang làm nhiệm vụ tại bản N, xã C, huyện Mai Sơn, tỉnh Sơn La phát hiện Nguyễn Thế H đang điều khiển xe máy nhãn hiệu YAMAHA – SIRIUS BKS 26B1 – 75975 có biểu hiện tàng trữ trái phép chất ma túy. Sau khi yêu cầu kiểm tra thì phát hiện trong lòng bàn tay trái của H có 01 gói được quấn bằng băng dính màu vàng lớp tiếp theo bằng nilon màu xanh bên trong chứa 01 viên nén màu hồng trên bề mặt có chữ “WY” nghi là ma túy tổng hợp, H khai nhận số ma túy trên là của H tàng trữ để sử dụng cho bản thân. Tổ công tác lập biên bản bắt người phạm tội quả tang đối với Nguyễn Thế H về hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy thu giữ, niêm phong vật chứng nêu trên. Qua kiểm tra thu giữ 01 điện thoại di động nhãn hiệu Iphone màu trắng (kèm sim) tại túi quần trước bên pH H đang mặc; số tiền 2.160.000VNĐ tại túi quấn sau bên trái H đang mặc; 01 xe máy nhãn hiệu YAMAHA – SIRIUS BKS 26B1 – 75975.

Tại cơ quan điều tra Nguyễn Thế H khai số ma túy trên H mua của Nguyễn Xuân Q (sinh năm 1985, trú tại: tiểu khu A, thị trấn H, huyện Mai Sơn, tỉnh Sơn La). Cùng ngày cơ quan CSĐT Công an huyện Mai Sơn tiến hành khám xét khẩn cấp người, chỗ ở, đồ vật đối với Nguyễn Xuân Q. Qua kiểm tra phát hiện thu giữ: tại túi quần trước bên phải Q đang mặc 01 lọ bằng kim loại được quấn ngoài bằng băng dính màu đen có nút đậy quấn bằng nilon bên trong có các viên nén màu hồng trên bề mặt mỗi viên có chữ “WY” nghi là ma túy tổng hợp; số tiền 2.850.000VNĐ tại túi quần bên pải Q đang mặc; 01 điện thoại nhãn hiệu OPPO màu đen (kèm sim), 01 điện thoại di động nhãn hiệu SAMSUNG màu đen (kèm sim). Nguyễn Văn Q khai nhận số ma túy trên là của Q tàng trữ để sử dụng cho bản thân nhưng không thừa nhận việc bán ma túy cho Nguyễn Thế H ngày 02.8.2019.

Ngày 02.8.2019 Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Mai Sơn ra lệnh bắt người bị giữ trong trường hợp khẩn đối với Nguyễn Xuân Q.

Quá trình điều tra Nguyễn Xuân Q khai nhận:

Khoảng 09 giờ ngày 01.8.2019, khi Q đang ở nhà tại tiểu khu A, thị trấn H thì S (Q không rõ họ tên, địa chỉ) là người quen của Q đến chơi. Q nảy sinh ý định mua ma túy về sử dụng nên đặt vấn đề hỏi mua của Sơn 5.000.000VNĐ hồng phiến. S đồng ý và hẹn 11 giờ cùng ngày sẽ mang ma túy đến nhà giao cho Q rồi đi về. Khoảng 11 giờ cùng ngày Sơn quay lại đưa cho Q 01 lọ kim loại bên ngoài được quấn bằng băng dính màu đen có nút đậy quấn bằng nilon, Q cầm lấy mở ra thì thấy bên trong có khoảng 70 đến 80 viên hồng phiến (Q không đếm số lượng cụ thể). Sau đó Q lấy 5.000.000VNĐ đưa cho S và cất giấu lọ ma túy vào túi quần bên phải đang mặc để sử dụng dần. Khoảng 09 giờ ngày 02.8.2019 Nguyễn Thế H là người quen của Q gọi điện đến hỏi sửa máy nổ, Q đồng ý. Khoảng 10 phút sau H điều khiển xe máy nhãn hiệu YAMAHA – SIRIUS BKS 26B1 – 75975 đến nhà Q trao đổi về việc sửa chữa máy nổ rồi điều khiển xe máy đi về. Đến 16 giờ cùng ngày khi Q đang ở nhà thì cơ quan CSĐT Công an huyện Mai Sơn đến thi hành lệnh khám xét khẩn cấp đối với Q và thu giữ các vật chứng nêu trên.

Quá trình điều tra Nguyễn Thế H khai nhận:

Khoảng 09 giờ ngày 02.8.2019, H gọi điện cho Nguyễn Xuân Q đặt vấn đề hỏi mua 400.000VNĐ hồng phiến, Q đồng ý và bảo H đến nhà Q để giao nhận ma túy. Khoảng 10 phút sau H điều khiển xe máy nhãn hiệu YAMAHA – SIRIUS BKS 26B1 – 75975 đến nhà Q tại tiểu khu A, thị trấn H. Khi đến nhà Q, Q nói để ma túy ở trên nắp máy nổ cách vị trí Q và H đang đứng khoảng 3m. H lấy 400.000VNĐ để lên chiếc xe đạp điện trong sân nhà Q cạnh vị trí Q đang ngồi rồi đi ra vị trí chiếc máy nổ thì thấy 01 gói nilon màu xanh bên trong chứa 04 viên hồng phiến. H cầm gói ma túy rồi điều khiển xe máy đến khu vực hồ Tiền Phong mở ra sử dụng hết 03 viên (bằng hình thức hít), 01 viên còn lại H gói lại bằng mảnh nilon màu xanh và lấy băng dính vàng ban đầu quấn bên ngoài rồi cầm vào lòng tay trái tiếp tục điều khiển xe máy đi về. Khi đi đến khu vực bản N, xã C, huyện Mai Sơn thì bị tổ công tác công an huyện Mai Sơn phát hiện bắt quả tang.

Ngày 02.8.2019, cơ quan CSĐT Công an huyện Mai Sơn phối hợp với phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Sơn La tiến hành bóc mở niêm phong, cân tịnh, trích rút mẫu giám định đối với số ma túy đã thu giữ của Nguyễn Thế H và Nguyễn Xuân Q. Kết quả:

- Tổng khối lượng 01 viên nén màu hồng thu giữ của Nguyễn Thế H là 0,086 gam, trích rút toàn bộ ký hiệu M. Mẫu giám định M gửi Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Sơn La giám định loại ma túy, khối lượng chất ma túy.

- Tổng khối lượng các viên màu hồng thu giữ của Nguyễn Xuân Q là 78 viên = 7,68 gam, trích rút 10 viên = 1, 02 gam ký hiệu M. Mẫu giám định M gửi Phòng kýỹ thuật hình sự Công an tỉnh Sơn La giám định loại ma túy, khối lượng chất ma túy. Vật chứng còn lại là T= 6,66 gam.

Ngày 09.8.2019, Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Sơn La ra bản kết luận giám định số 1373/KLMT, kết luận:

“- Mẫu gửi giám định ký hiệu M là ma túy; Loại Methamphetamine; Tổng khối lượng của mẫu gửi giám định là 1,02 gam.

- Tổng khối lượng ma túy thu giữ được là 7,68 gam; Loại Methamphetamine” Ngày 09.8.2019, Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Sơn La ra bản kết luận giám định số 1374/KLMT, kết luận:

“- Mẫu gửi giám định ký hiệu M là ma túy; Loại Methamphetamine; Tổng khối lượng của mẫu gửi giám định là 0,086 gam.

- Tổng khối lượng ma túy thu giữ được là 0,086 gam; Loại Methamphetamine”.

Tại phiên toà, bị cáo đã thành khẩn khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình và đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ mức hình phạt cho bị cáo.

Bản cáo trạng số 95/CT-VKSMS ngày 19.11.2019 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Mai Sơn đã truy tố bị cáo Nguyễn Xuân Q về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy theo quy định tại điểm g khoản 2 Điều 249 Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017).

Sau khi kết thúc phần thẩm vấn, đại diện Viện kiểm sát trình bày bản luận tội đối với bị cáo đã giữ nguyên quan điểm truy tố bị cáo theo cáo trạng và đề nghị hội đồng xét xử: Áp dụng điểm g khoản 2 Điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi bổ sung năm 2017):

- Tuyên bố bị cáo Nguyễn Xuân Q phạm tội Tàng trữ trái phép chất ma túy.

Xử phạt bị cáo Nguyễn Xuân Q từ 05 năm đến 06 năm tù giam.

Phạt bổ sung đối với bị cáo từ 1.000.000VNĐ đến 2.000.000VNĐ.

- Về vật chứng: Áp dụng điểm a, c khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi bổ sung năm 2017); khoản 2, khoản 3 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015:

Tịch thu tiêu hủy 01 vỏ phong bì niêm phong ban đầu, băng dính màu vàng, mảnh nilon màu xanh gói ma túy ban đầu thu giữ của Nguyễn Thế H; 01 vỏ phong bì niêm phong ban đầu, 01 lọ bằng kim loại được quấn bằng băng dính màu đen có nút đậy được quấn bằng nilon, vật chứng còn lại T= 6,66gam Methamphetamine .

Tạm giữ để đảm bảo cho công tác thi hành án số tiền 2.850.000VNĐ; 01 điện thoại di động nhãn hiệu OPPO màu đen (kèm sim), 01 điện thoại di động nhãn hiệu SAMSUNG màu đen (kèm sim) thu giữ của Nguyễn Xuân Q.

Chấp nhận việc cơ quan điều tra trả lại cho Vũ Thu Trang 01 điện thoại di động nhãn hiệu Iphone màu trắng, 01 xe máy nhãn hiệu YAMAHA – SIRIUS BKS 26B1 – 75975, số tiền 2.160.000VNĐ thu giữ của Nguyễn Thế H.

- Về án phí: Áp dụng Điều 135, 136 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015, Điều 21, Điều 23 Nghị Quyết số 326/2016/UBTVQH14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Toà án: Buộc bị cáo pH chịu án phí hình sự sơ thẩm là 200.000VNĐ. Bị cáo tự bào chữa: Nhất trí với nội dung luận tội của đại diện Viện kiểm sát. Đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:

[1] Về tố tụng: Hành vi, Q định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện Mai Sơn, điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Mai Sơn, kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Bị cáo và những người tham gia tố tụng khác trong quá trình điều tra, truy tố, và tại phiên tòa hôm nay không có người nào có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, Q định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, Q định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

Anh Anh Nguyễn Thế H thực hiện hành vi tàng trữ trái phép 0,086 gam ma túy để sử dụng và đã bị Công an huyện Mai Sơn ra Q định xử phạt vi phạm hành chính bằng hình thức phạt tiền 1.000.000 VNĐ. Vật chứng thu giữ của Nguyễn Thế H, cơ quan điều tra đã trả lại cho chủ sở hữu. Do đó, Hội đồng xét xử đưa anh H vào tham gia tố tụng với tư cách là người làm chứng. Tại phiên tòa, H vắng mặt. Tuy nhiên, các chứng cứ trong hồ sơ đã ghi đầy đủ lời khai của H. Vì vậy, căn cứ Điều 293 Bộ luật tố tụng hình sự, Hội đồng xét xử xét thấy việc vắng mặt người làm chứng không gây trở ngại cho việc xét xử nên vẫn tiến hành xét xử theo quy định chung.

[2] Về tình tiết định tội, định khung hình phạt: Tại phiên tòa bị cáo Nguyễn Xuân Q đã khai nhận: Bị cáo là đối tượng sử dụng trái phép chất ma túy. Ngày 01.8.2019, Nguyễn Xuân Q mua trái phép 5.000.000 VNĐ ma túy để sử dụng cho bản thân. Ngày 02.8.2019 bị tổ công tác công an huyện Mai Sơn khám xét thu giữ 7,68 gam Methamphetamine.

Lời khai nhận tội của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với biên bản khám xét lập hồi 16 giờ 00 phút ngày 02.8.2019; biên bản mở niêm phong, cân tịnh, trích rút mẫu giám định và niêm phong lại vật chứng; phù hợp với kết luận giám định số 1373/KLMT ngày 09.8.2019 của Phòng kỹ thuật hình sự công an tỉnh Sơn La; phù hợp với các biên bản lấy lời khai, biên bản hỏi cung đối với bị can và phù hợp với các chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án. Qua tranh luận tại phiên tòa không có gì mâu thuẫn và không phát sinh tình tiết, chứng cứ mới.

Trong quá trình điều tra, Nguyễn Thế H khai mua ma túy của Nguyễn Xuân Q vào ngày 02.8.2019. Tuy nhiên, bị cáo không thừa nhận việc bán ma túy cho H mà cho rằng H có gọi điện và đến nhà để hỏi sửa chữa máy nổ, quá trình trao đổi, mua bán ma túy không ai biết, chứng kiến. Do đó, không có căn cứ để xử lý Nguyễn Xuân Q theo Điều 251 Bộ luật hình sự năm 2015 về tội mua bán trái phép chất ma túy.

Như vậy, với việc tàng trữ trái phép 7,68 gam Methamphetamine để sử dụng cho bản thân đã có đầy đủ cơ sở kết luận bị cáo Nguyễn Xuân Q đã phạm vào tội Tàng trữ trái phép chất ma túy. Do đó, Viện kiểm sát truy tố và Tòa án xét xử bị cáo về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy theo quy định tại điểm g khoản 2 Điều 249 Bộ luật Hình sự là chính xác, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật, không oan sai cho bị cáo.

[3] Xét về tính chất, mức độ nghiêm trọng của tội phạm: Bị cáo là người có năng lực chịu trách nhiệm về hình sự, nhận thức được việc mua, tàng trữ nhằm mục đích sử dụng trái phép chất ma túy là vi phạm pháp luật, nhưng bị cáo đã bất chấp quy định của pháp luật để phạm tội với lỗi cố ý. Hành vi của bị cáo đã xâm phạm vào chính sách độc quyền quản lý của Nhà nước về ma túy, gây mất trật tự trị an xã hội, tiếp tay cho các đối tượng hám lời có cơ hội lưu thông buôn bán ma túy. Hành vi của bị cáo là nguy hiểm, vì lẽ đó khi lượng hình cần pH áp dụng mức hình phạt nghiêm khắc, tương xứng với hành vi phạm tội mà bị cáo đã thực hiện.

[4] Xét về tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, nhân thân của bị cáo, xét thấy: Bị cáo Nguyễn Xuân Q không có tiền án, tiền sự; không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.

Quá trình điều tra và tại phiên toà sơ thẩm, bị cáo đều có thái độ thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải. Đây là tình tiết giảm nhẹ được quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi bổ sung năm 2017) sẽ được Hội đồng xét xử xem xét áp dụng đối với bị cáo khi lượng hình.

Từ những nhận định trên, căn cứ vào tính chất mức độ hành vi phạm tội và nhân thân của bị cáo, Hội đồng xét xử xét thấy cần thiết cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian nhất định để cải tạo, giáo dục bị cáo, đồng thời mới có tác dụng răn đe, giáo dục và phòng ngừa chung.

[5] Về hình phạt bổ sung: Quá trình điều tra và tại phiên tòa đã xác định: bị cáo là người nghiện ma túy, bản thân không có tài sản riêng gì có giá trị. Tuy nhiên, cơ quan điều tra có thu giữ của bị cáo số tiền 2.850.000VNĐ tại túi quần bên pH Q đang mặc; 01 điện thoại nhãn hiệu OPPO màu đen (kèm sim), 01 điện thoại di động nhãn hiệu SAMSUNG màu đen (kèm sim). Hội đồng xét xử thấy rằng: Đây là những tài sản có giá trị. Do vậy, cần áp dụng khoản 5 Điều 249; khoản 3 Điều 35 Bộ luật Hình sự áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo số tiền là 2.000.000VNĐ để sung công quỹ Nhà nước.

[6] Về xử lý vật chứng: Đối với 01 vỏ phong bì niêm phong ban đầu, băng dính màu vàng, mảnh nilon màu xanh gói ma túy ban đầu thu giữ của Nguyễn Thế H; 01 vỏ phong bì niêm phong ban đầu, 01 lọ bằng kim loại được quấn bằng băng dính màu đen có nút đậy được quấn bằng nilon, vật chứng còn lại T= 6,66gam Methamphetamine là chất nhà nước cấm tàng trữ, lưu hành và vật không có giá trị sử dụng nên cần tịch thu tiêu hủy theo quy định.

Đối với số tiền 2.850.000VNĐ; 01 điện thoại di động nhãn hiệu OPPO màu đen (kèm sim), 01 điện thoại di động nhãn hiệu SAMSUNG màu đen (kèm sim) thu giữ của Nguyễn Xuân Q. Xét thấy đây là tài sản hợp pháp của bị cáo, không liên quan đến việc phạm tội. Tuy nhiên, Hội đồng xét xử sẽ áp dụng hình phạt tiền bổ sung đối với bị cáo nên cần cần tạm giữ để đảm bảo cho công tác thi hành án.

Đối với 01 điện thoại di động nhãn hiệu Iphone màu trắng, 01 xe máy nhãn hiệu YAMAHA – SIRIUS BKS 26B1 – 75975, số tiền 2.160.000VNĐ thu giữ của Nguyễn Thế H. Quá trình điều tra, cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Mai Sơn đã trả lại tài sản cho chủ sở hữu. Do đó, Hội đồng xét xử không xem xét các vật chứng thu giữ của Nguyễn Thế H trong vụ án này.

[7] Các vấn đề khác:

Về nguồn gốc số ma túy Q khai mua của người đàn ông tên S. Q không biết rõ họ tên, tuổi, địa chỉ, quá trình trao đổi không ai biết, chứng kiến nên Cơ quan điều tra Công an huyện Mai Sơn không có cơ sở để điều tra xác minh.

Đối với Nguyễn Thế H đã thực hiện hành vi tàng trữ trái phép 0,086 gam ma túy để sử dụng. Căn cứ Điều 249 Bộ luật hình sự, khối lượng ma túy H tàng trữ dưới 0,1 gam không đủ cấu thành tội tàng trữ trái phép chất ma túy, H chưa có tiền án, tiền sự. Do đó, Công an huyện Mai Sơn đã ra Q định xử phạt vi phạm hành chính đối với H về hành vi tàng trữ, sử dụng trái phép chất ma túy bằng hình thức phạt tiền 1.000.000 VNĐ.

Về án phí: Bị cáo pH chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên

QUYẾT ĐỊNH

1. Căn cứ điểm g khoản 2, khoản 5 Điều 249; khoản 3 Điều 35; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi bổ sung năm 2017):

Tuyên bố bị cáo Nguyễn Xuân Q phạm tội Tàng trữ trái phép chất ma túy.

Xử phạt bị cáo Nguyễn Xuân Q 05 (Năm) năm tù. Thời gian chấp hành hình phạt tù được tính kể từ ngày bị tạm giữ, tạm giam (ngày 02.8.2019).

Phạt bổ sung đối với bị cáo số tiền 2.000.000VNĐ.

2. Về vật chứng: Áp dụng điểm a, c khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi bổ sung năm 2017); khoản 2, khoản 3 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015:

Tịch thu tiêu hủy 01 vỏ phong bì niêm phong ban đầu, băng dính màu vàng, mảnh nilon màu xanh gói ma túy ban đầu thu giữ của Nguyễn Thế H; 01 vỏ phong bì niêm phong ban đầu, 01 lọ bằng kim loại được quấn bằng băng dính màu đen có nút đậy được quấn bằng nilon, vật chứng còn lại T= 6,66gam Methamphetamine.

Tạm giữ để đảm bảo cho công tác thi hành án số tiền 2.850.000VNĐ; 01 điện thoại di động nhãn hiệu OPPO màu đen (kèm sim), 01 điện thoại di động nhãn hiệu SAMSUNG màu đen (kèm sim) thu giữ của Nguyễn Xuân Q.

3. Về án phí: Áp dụng Điều 135, 136 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015, Điều 21, Điều 23 Nghị Quyết số 326/2016/UBTVQH14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Toà án: Buộc bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm là 200.000VNĐ.

Báo cho bị cáo được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

179
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 93/2019/HS-ST ngày 29/11/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:93/2019/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Mai Sơn - Sơn La
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 29/11/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về