Bản án 93/2019/HS-ST ngày 29/11/2019 về tội mua bán trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN VĨNH TƯỜNG - TỈNH VĨNH PHÚC

BẢN ÁN 93/2019/HS-ST NGÀY 29/11/2019 VỀ TỘI MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 29 tháng 11 năm 2019 tại trụ sở Toà án nhân dân huyện Vĩnh Tường, tỉnh Vĩnh Phúc xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 86/2019/HSST ngày 15 tháng 11 năm 2019 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 96/2019/QĐXXST-HS ngày 18 tháng 11 năm 2019 đối với bị cáo:

Khổng Văn Q, sinh ngày 25 tháng 02 năm 1987; nơi đăng ký hộ khẩu thường trú: Thôn B - xã Y - huyện V - tỉnh Vĩnh Phúc; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hóa: 6/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Khổng Đắc L, sinh năm 1964 (đã chết) và bà Nguyễn Thị K, sinh năm 1965; vợ Khổng Thị N, sinh năm 1987 và có 03 con (con lớn sinh năm 2007 con nhỏ sinh năm 2016); tiền án: Không.

Tiền sự: Có 01 tiền sự, ngày 23/03/2016 Khổng Văn Q bị Toà án nhân dân huyện Vĩnh Tường ra Quyết định số 04/2015/QĐ-TA Quyết định áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc thời hạn 24 tháng, kể từ ngày người bị áp dụng biện pháp xử lý hành chính bị tạm giữ để đưa đi cai nghiện bắt buộc. Ngày 14/5/2018 Q đã chấp hành xong quyết định.

Nhân thân: Ngày 22/12/2011 Khổng Văn Q bị Chủ tịch Uỷ ban nhân dân huyện Vĩnh Tường ra Quyết định số 2563/QĐ-CT đưa vào cơ sở chữa bệnh thời gian 24 tháng kể từ ngày 22/12/2011 đến ngày 22/12/2013. Ngày 22/12/2013 đã bàn giao và quản lý sau cai nghiện đối với Q tại nơi cư trú theo quyết định số 5077/QĐ-CT ngày 20/11/2013 của Chủ tịch Uỷ ban nhân dân huyện Vĩnh Tường.

Bị cáo bị bắt tạm giữ từ ngày 08/8/2019 chuyển tạm giam từ ngày 14/8/2019 cho đến nay (có mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên toà, nội dung vụ án được tóm tắt như sau: Khoảng 10 giờ 20 phút ngày 08/8/2019 Khổng Văn Q trú tại thôn B, xã Y, huyện V đang ở nhà thì nhận được điện thoại từ số thuê bao 0969.821.704 của Trần Duy T trú tại thôn P, xã Y, huyện V gọi đến số điện thoại của Q có số thuê bao 0972.833.601, qua điện thoại T hỏi Q “Có không, bán cho cái năm trăm nghìn”, Q hiểu ý T muốn hỏi mua của Q 01 gói ma túy Heroine với giá 500.000đ. Do có sẵn Heroine nên Q đã đồng ý trả lời T là “Có”. Sau đó T hẹn Q lên bờ kênh 6A thuộc thôn B, xã Y để giao ma túy Q đồng ý. Sau khi nghe điện thoại xong, Q một mình đi bộ ra điểm hẹn với T và có mang theo 01 gói Heroine để trong một túi nilon đút trong túi quần đang mặc. Khi ra tới bờ kênh 6A Q thấy T đang đợi ở đó, khi gặp nhau như đã thỏa thuận từ trước T đưa cho Q số tiền 500.000đ, Q cầm tiền T đưa và cất vào trong túi quần Q đang mặc đồng thời lấy ra 01 túi nilon bên trong túi có 01 gói Heroine đưa cho T. T cầm túi nilon bên trong có gói ma túy Q đưa cầm ở lòng bàn tay trái, đúng lúc đó thì bị lực lượng Công an huyện Vĩnh Tường ập đến bắt quả tang Q có hành vi bán trái phép chất ma túy cho T, tang vật thu giữ:

Thu giữ tại tay trái Trần Duy T đang cầm 01 túi nilon có mép vuốt, bên trong có 01 gói giấy chứa chất bột màu trắng. T khai nhận đó là Heroine của T vừa mua được của Khổng Văn Q với giá 500.000đ, tang vật được niêm phong ký hiệu A1. Thu giữ trong túi quần bên phải phía trước Trần Duy T đang mặc 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Nokia 1280 màu đen đã cũ, bên trong nắp sim thuê bao: 0969.821.704.

Thu giữ tại túi quần bên phải phía trước Khổng Văn Q đang mặc số tiền 500.000đ gồm 02 tờ tiền polime mệnh giá 200.000đ và 01 tờ tiền polime mệnh giá 100.000đ, Q khai nhận là tiền của Q vừa bán ma túy cho T mà có. Thu giữ tại túi quần bên trái phía trước Khổng Văn Q đang mặc 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Nokia 110i bên trong lắp sim thuê bao: 0972.833.601.

Căn cứ hành vi bán trái phép chất ma túy của Khổng Văn Q, cùng ngày Cơ quan Cảnh sát điều tra – Công an huyện Vĩnh Tường tiến hành khám xét khẩn cấp chỗ ở của Khổng Văn Q tại thôn B, xã Y, huyện V quá trình khám xét đã phát hiện thu giữ: Thu giữ trong vỏ hộp kẹo Bigbabol được làm bằng nhựa để ở trong túi áo véc màu đen treo trong tủ quần áo làm bằng nhôm kính kê ở vị trí kho để đồ phía sau chỗ ở của Q 01 gói nilon màu trắng có dán bên ngoài một phần hai băng keo màu đen. Bên trong gói giấy chất bột màu trắng nghi là ma túy (Heroine), tang vật được niêm phong ký hiệu A2.

Ngày 08/8/2019, Cơ quan Cảnh sát điều tra – Công an huyện Vĩnh Tường đã ra quyết định trưng cầu giám định tang vật thu giữ của Trần Duy T và tang vật thu giữ trong quá trình khám xét chỗ ở của Khổng Văn Q đến Phòng kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Vĩnh Phúc để giám định xác định khối lượng và loại ma túy trong mẫu vật ký hiệu A1, A2.

Tại bản kết luận giám định số 1580/KLGĐ ngày 12/8/2019 của Phòng kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Vĩnh Phúc kết luận:

Chất bột, cục màu trắng của mẫu ký hiệu A1 gửi giám định là ma túy, có khối lượng là: 0,0545g (Không phảy không năm bốn năm gam, không kể bao bì), loại Heroine. Chất bột, cục màu trắng của mẫu ký hiệu A2 gửi giám định là ma túy, có khối lượng là 0, 1727g (Không phảy một bảy hai bảy gam, không kể bao bì), loại Heroine. Heroine là chất ma túy nằm ở STT 9, danh mục I, Nghị định số 73/2018/NĐ-CP ngày 15/5/2018 của Chính phủ.

Hoàn lại đối tượng giám định: Hoàn trả trực tiếp đối tượng giám định còn lại sau giám định cho cơ quan trưng cầu tại Phòng kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Vĩnh Phúc gồm: A1 = 0,0000 gam; A2 = 0.0745 gam mẫu và toàn bộ bao gói, được niêm phong dán kín trong cùng 01 bao giấy gói “MẪU TRẢ”, trên giáp lai có chữ ký của người tham gia đóng gói niêm phong và hình dấu tròn đỏ của phòng Kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Vĩnh Phúc.

Tại bản Cáo trạng số 89/CT-VKSVT ngày 14 tháng 11 năm 2019 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Vĩnh Tường đã truy tố bị cáo Khổng Văn Q về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” theo khoản 1 Điều 251 Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa đại diện Viện kiểm sát luận tội, giữ nguyên quan điểm truy tố đối với bị cáo Khổng Văn Q và đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng: Khoản 1 Điều 251, điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự xử phạt bị cáo Khổng Văn Q từ 02 năm 09 tháng đến 03 năm tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù được tính từ ngày bắt tạm giữ, tạm giam ngày 08/8/2019, không áp dụng hình phạt bổ sung đối với Khổng Văn Q và đề nghị xử lý tang vật theo quy định của pháp luật.

Bị cáo không có ý kiến tranh luận tại phiên toà. Trong lời nói sau cùng bị cáo Q đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên toà, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1]. Về tố tụng: Về hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan điều tra Công an huyện Vĩnh Tường, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Vĩnh Tường, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại gì về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2]. Về nội dung: Xét lời khai nhận tội của bị cáo tại cơ quan điều tra cũng như tại phiên tòa là phù hợp với nhau về thời gian, địa điểm, cách thức thực hiện phạm tội như lời nhận tội của bị cáo, lời khai của người liên quan. Biên bản bắt người phạm tội quả tang và vật chứng của vụ án, các kết luận của các cơ quan chuyên môn cùng các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án, kết quả xét hỏi, thẩm vấn tranh luận tại phiên tòa từ đó có đủ cơ sở để xác định: Hồi 10 giờ 25 phút ngày 08/8/2019 tại thôn B, xã Y, huyện Vĩnh Tường Khổng Văn Q đã bán cho Trần Duy T 01 gói Heroine trị giá 500.000đ, có khối lượng là 0,0545 gam không kể bao bì. Khám xét nơi ở của Khổng Văn Q thu trong vỏ hộp kẹo Bigbabol được làm bằng nhựa để ở trong túi áo véc màu đen treo trong tủ quần áo của Q 01 gói Heroine có khối lượng là 0,1727 gam không kể bao bì. Thu tại túi quần bên phải phía trước Q đang mặc 500.000đ là tiền Q vừa bán Heroine cho Trần Duy T mà có. Đối chiếu với Bộ luật hình sự bị cáo Q đã phạm vào tội “Mua bán trái phép chất ma túy” được quy định tại khoản 1 Điều 251 của Bộ luật hình sự.

Khoản 1 Điều 251 Bộ luật hình sự quy định: “Người nào mua bán trái phép chất ma túy, thì bị phạt tù từ 02 năm đến 07 năm”.

Xét tính chất vụ án là nghiêm trọng. Động cơ phạm tội của bị cáo là tư lợi cho bản thân, Q nghiện ma tuý từ năm 2010 cho đến nay nên thường đi mua ma túy về sử dụng sau đó lại bán cho các con nghiện khác để kiếm lời. Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội gây mất trật tự trị an và an toàn xã hội. Mua bán, sử dụng, tàng trữ trái phép chất ma túy làm cho nhiều gia đình bại sản về kinh tế. Từ nghiện hít ma túy dẫn đến không có tiền sinh ra trộm cắp…Đảng và Nhà nước có nhiều chủ trương chính sách để loại bỏ ma túy ra khỏi xã hội nhưng Ngọc vẫn đi mua ma túy về sử dụng sau đó lại bán cho người khác để bán kiếm lời. Như vậy Q rất coi thường pháp luật vì vậy phải xử phạt nghiêm minh nhằm giáo dục và phòng ngừa chung.

[3]. Xét các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và nhân thân của bị cáo, Hội đồng xét xử xét thấy: Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự. Bị cáo có nhân thân xấu đã hai lần bị áp dụng biện pháp xử lý hành chính, nhưng Q vẫn không từ bỏ được ma tuý và không lấy đó làm bài học cho bản thân mà lại tham gia vào con đường phạm tội. Tuy nhiên tại cơ quan điều tra và tại phiên tòa bị cáo đã thành khẩn khai báo nên được hưởng tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự. Do vậy, Hội đồng xét xử sẽ xem xét giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo để thấy được sự khoan hồng của pháp luật và yên tâm cải tạo.

[4]. Về hình phạt bổ sung: Theo khoản 5 Điều 251 của Bộ luật hình sự quy định: "Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 500.000.000 đồng, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm hoặc tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản”. Bản thân bị cáo nghiện ma túy nên đi mua về sử dụng lẽ ra phải phạt tiền đối với bị cáo nhưng xét thấy bị cáo không có việc làm ổn định, không có tài sản riêng nên Hội đồng xét xử không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

[5]. Về nguồn gốc số ma túy thu giữ của Khổng Văn Q bán cho Trần Duy T vào ngày 08/8/2019 và số ma tuý Cơ quan điều tra thu giữ khi khám xét chỗ ở của Q, Q khai nhận: Vào khoảng 08 giờ ngày 08/8/2019, Q đi nhờ xe của một người đàn ông không quen biết từ nhà vào phường Ngô Quyền TP Vĩnh Yên, khi đến nơi Q xuống xe và đi bộ vào một ngõ nhỏ (Q không nhớ rõ địa chỉ cụ thể), khi vào ngõ này Q gặp 01 phụ nữ không quen biết khoảng ngoài 30 tuổi. Tại đây Q hỏi và mua được một gói Heroine của người phụ nữ này với giá 500.000đ, khi mua ma túy xong Q đi bộ ra ngoài đường rồi đi nhờ xe của một người đàn ông đi đường không quen biết đi từ thành phố Vĩnh Yên về xã Y. Khi về đến nhà Q mang gói ma túy ra chia thành 02 gói nhỏ, một gói Q cho vào trong túi nilon màu trắng và bán lại cho T thì bị Công an bắt quả tang, gói ma túy còn lại Q cất giấu ở trong vỏ hộp kẹo nhãn hiệu Bigbalol để ở trong túi áo véc màu đen của Q treo trong tủ quần áo mục đích để ai hỏi mua thì đem bán kiếm lời (gói ma tuý này đã bị cơ quan Công an thu giữ trong quá trình khám xét chỗ ở của Q).

[6]. Đối với anh Trần Duy T (đã chết ngày 10/9/2019) là người đã mua ma túy của Khổng Văn Q ngày 08/8/2019 nhằm mục đích để sử dụng cho bản thân, quá trình điều tra xác định T không có tiền án, tiền sự tại Cơ quan điều tra T đã khai nhận rõ hành vi vi phạm của mình. Khối lượng Heroine T đã mua của Q là 0,0545 gam nên hành vi của T không cấu thành tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Do vậy ngày 05/9/2019 Công an huyện Vĩnh Tường đã ra quyết định xử phạt vi phạm hành chính bằng hình thức phạt tiền 1.000.000đ đối với T là phù hợp.

Đối với người phụ nữ lạ mặt khoảng ngoài 30 tuổi theo lời khai của Khổng Văn Q là người đã bán Heroine cho Q tại khu vực một ngõ nhỏ thuộc phường Ngô Quyền, thành phố Vĩnh Yên, tỉnh Vĩnh Phúc. Quá trình điều tra chưa xác định được tên, địa chỉ của người phụ nữ này, do vậy Cơ quan Cảnh sát điều tra tiếp tục xác minh làm rõ khi đủ căn cứ sẽ xử lý theo quy định.

[7]. Về xử lý vật chứng: Đối với chiếc điện thoại di động nhãn hiệu NOKIA 110i màu đen (đã cũ) thu giữ của Khổng Văn Q, 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu NOKIA 1280 màu đen (đã cũ) thu giữa của Trần Duy T. Quá trình điều tra xác định là tài sản của Q và T đã sử dụng để liên lạc mua bán trái phép chất ma túy với nhau, do vậy cần phải tịch thu sung vào ngân sách Nhà nước.

Đối với số tiền 500.000đ thu giữ của Khổng Văn Q, quá trình điều tra xác định là tiền Q bán trái phép chất ma túy cho T mà có nên cần tịch thu sung công quỹ Nhà nước.

Tịch thu tiêu huỷ 0,0000 gam mẫu (A1) và 0,0745 gam mẫu (A2) cùng toàn bộ bao gói do Cơ quan giám định hoàn trả sau giám định.

[8]. Về án phí hình sự sơ thẩm: Bị cáo Khổng Văn Q phải chịu theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào khoản 1 Điều 251, điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự. Tuyên bố bị cáo Khổng Văn Q phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy”.

Xử phạt bị cáo Khổng Văn Q 02 (hai) năm 09 (chín) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù được tính từ ngày bắt tạm giữ, tạm giam ngày 08 tháng 8 năm 2019.

Căn cứ vào khoản 1, 2 Điều 47 của Bộ luật hình sự; Điều 106, 136 của Bộ luật tố tụng hình sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 của Ủy ban thường vụ Quốc hội ngày 30/12/2016 quy định về mức thu, miễm, giảm, thu, nộp quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Tịch thu sung quỹ Nhà nước số tiền 500.000đ (năm trăm nghìn đồng) thu giữ của Khổng Văn Q do bán trái phép chất ma túy mà có.

Tịch thu bán phát mại sung quỹ Nhà nước 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu NOKIA 110i màu đen (đã cũ) thu giữ của Khổng Văn Q và 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu NOKIA 1280 màu đen (đã cũ) thu giữa của Trần Duy T.

Tịch thu tiêu huỷ 0,0000 gam mẫu (A1) và 0,0745 gam mẫu (A2) cùng toàn bộ bao gói do Cơ quan giám định hoàn trả sau giám định (theo biên bản giao vật chứng, tài sản ngày 28/11/2019 giữa Công an huyện Vĩnh Tường và Chi cục thi hành án dân sự huyện Vĩnh Tường).

Bị cáo Khổng Văn Q phải nộp 200.000 đồng (hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

Bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

190
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 93/2019/HS-ST ngày 29/11/2019 về tội mua bán trái phép chất ma túy

Số hiệu:93/2019/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Vĩnh Tường - Vĩnh Phúc
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 29/11/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về