Bản án 93/2019/HSST ngày 28/11/2019 về tội trộm cắp tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN BỐ TRẠCH, TNH QUẢNG BÌNH

BẢN ÁN 93/2019/HSST NGÀY 28/11/2019 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 28 tháng 11 năm 2019,tại Trụ sở Toà án nhân dân huyện Bố Trạch , tỉnh Quảng Bình xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 85/2019/HSST ngày 31 tháng 10 năm 2019 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 96/2019/QĐXXST-HS ngày 14/11/2019 đối với bị cáo:

Lê Trường B; Giới tính: Nam; sinh ngày 20/8/1977 tại Đ, Nghệ An; Nơi ĐKNKTT/chỗ ở: Thôn L, thị trấn N, huyện L, tỉnh Quảng Bình; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ học vấn: 3/12; con Lê Trường K và bà Nguyễn Thị H; trú tại: Xóm 5, xã T, huyện Đ, tỉnh Nghệ An; Vợ: Dương Thị H, sinh năm 1983 (Đã ly hôn); Con: Có 01 đứa, sinh năm 2009; Tiền án, tiền sự: Không, về nhân thân:

- Ngày 30/01/1999 bị Toà án nhân dân thành phố Vinh , tỉnh Nghệ An xử phạt 06 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản của công dân”.

- Ngày 29/8/2000 bị Toà án nhân dân thành phố Vinh, tỉnh Nghệ An xử phạt 12 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”.

- Ngày 30/01/2002 bị Toà án nhân dân thành phố Vinh , tỉnh Nghệ An xử phạt 30 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”.

- Ngày 28/11/2014 bị Toà án nhân dân thành phố Đồng Hới, tỉnh Quảng Bình xử phạt 18 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”.

- Ngày 02/6/2015 bị Toà án nhân dân huyện Bố Trạch, tỉnh Quảng Bình xử phạt 09 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản” . Tổng hợp hình phạt với bản án ngày 28/11/2014 của Toà án nhân dân thành phố Đồng Hới, tỉnh Quảng Bình, buộc bị cáo phải chấp hành hình phạt chung là 27 tháng tù, chấp hành xong hình phạt vào ngày 14/8/2016.

- Ngày 18/7/2019 bị Toà án nhân dân huyện Đô Lương, tình Nghệ An xử phạt 24 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”.

Bị cáo Lê Trường B hiện đang thi hành án tại Trại giam Xuân Hà, tỉnh Hà Tĩnh về một vụ án khác, có mặt.

- Người bị hại:

+ Dương Thị Q; trú tại: Thôn B, xã Đ, huyện B, tỉnh Quảng Bình (vắng mặt).

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

+ Đặng Huy T; trú tại: xóm p, xã D, huyện D, tỉnh Nghệ An (vắng mặt).

+ Nguyên Văn C; trú tại: xóm 5, xã D, huyện D, tỉnh Nghệ An (vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên toà , nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 08h00 ngày 07/11/2018, Lê Trường B đi xe buýt từ huyện Lệ Thủy đến chợ Đồng Trạch, huyện bố Trạch ngồi uống nước thì nhìn thấy xe mô tô nhãn hiệu SIRIUS, màu đỏ đen, BKS 73F1 - 373.58 của chị Dương Thị Q, sinh năm 1979, trú tại: Thôn B, xã Đ đang dựng trước cổng chợ Đồng Trạch không có người trông coi nên nảy sinh ý định trộm cắp tài sản. B lại gần dùng chìa khóa mang theo mở khóa điện của xe rồi nổ máy chạy về nhà ở thôn Liên Cơ, thị trấn Nông trường Lệ Ninh, huyện Lệ Thủy cất giấu. Đến khoảng tháng 12/2018 (âm lịch) B điều khiển xe mô tô nói trên đi tỉnh Nghệ An thì bị tai nạn giao thông được anh Đặng Huy T, sinh năm 1977, trú tại: D, Nghệ An đưa đi cấp cứu. Do B không có tiền trả viện phí nên nên anh T cho B mượn, B để lại chiếc xe mô tô BKS 73F1 - 373.58 làm tin và hẹn anh T ít ngày sau sẽ đến lấy. Do không thấy B đến nhận lại xe nên anh T đã giao nộp chiếc xe trên cho Cơ quan CSĐT Công an tỉnh Nghệ An. Kết quả định giá tài sản tang vật số 18/KL - HĐĐGTS ngày 17/6/2019 của Hội đồng định giá tài sản trong TTHS huyện Bố Trạch xác định: Xe mô tô nhãn hiệu YAMAHA SIRIUS, màu sơn đen đỏ, BKS 73F1 - 373.58, số khung RLCUE322HY068286, số máy E3X9E303335 bị chiếm đoạt trị giá 16.920.000 đồng. (Mười sáu triệu chín trăm hai mươi ngàn đồng).

Vật chứng vụ án: Cơ quan CSĐT Công an tỉnh Nghệ An đã thu giữ, xử lý trả lại cho chị Dương Thị Quế: 01 xe mô tô nhãn hiệu YAMAHA SIRIUS, màu sơn đen đỏ, số khung RLCUE322HY068286, số máy E3X9E303335.

Trách nhiệm dân sự: Chị Dương Thị Q đã nhận lại tài sản không yêu cầu gì; Anh Đặng Huy T không có yêu cầu bồi thường dân sự.

Tại bản Cáo trạng số 79/CT - VKSBT ngày 29/10/2019 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Bố Trạch, tỉnh Quảng Bình truy tố bị cáo Lê Trường B, về tội ‘Trộm cắp tài sản” theo quy định tại khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Bố Trạch giữ nguyên quyết định truy tố đối với bị cáo theo tội danh và điều khoản của Bộ luật hình sự đã nêu trên, và đề nghị Hội đồng xét xử: Áp dụng khoản 1 Điều 173; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự đối với Lê Trường B . Đề nghị mức hình phạt đối với bị cáo từ 15 đến 18 (mười tám) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày bị cáo thi hành án 12/3/2019. Đồng thời đề nghị áp dụng Điều 56 Bộ luật hình sự tổng hợp với hình phạt 24 tháng tù tại bản án số 63/2019/HSST ngày 18/7/2019 của Toà án nhân dân huyện Đô Lương, tỉnh Nghệ An, buộc bị cáo phải chấp hành hình phạt chung của hai bản án, thời hạn tù tính từ ngày 12/3/2019.

Về vật chứng: Đã xử lý xong đúng pháp luật.

Về trách nhiệm dân sự: Không có ai có yêu cầu gì thêm.

Miễn hình phạt bổ sung là hình phạt tiền đối với bị cáo.

Đồng thời đề nghị buộc bị cáo phải phải chịu án phí theo quy định của pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án , căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên toà, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:

[1] Về tố tụng: về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện Bố Trạch, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Bố Trạch , Kiểm sát viên trong quá trình điều tra , truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền , trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự . Bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng , người tiến hành tố tụng . Do đó các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp. Đồng thời việc vắng mặt của những người tham gia tố tụng khác không làm ảnh hưởng đến việc xét xử vụ án nên Hội đồng xét xử quyết định xét xử vắng mặt họ là có căn cứ.

[2] Về hành vi phạm tội của bị cáo, Hội đồng xét xử xét thấy:

Lời khai nhận tội của bị cáo , người bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có trong hồ sơ vụ án, không gian, thời gian, địa điểm bị cáo thực hiện hành vi phạm tội bị phát hiện , đặc điểm tài sản mà bị cáo chiếm đoạt hoàn toàn phù hợp nhau. Do đó Hội đồng xét xử có cơ sở xác định:

Xuất phát từ động cơ hám lợi và ý thức coi thường pháp luật, khoảng 08h00 ngày 07/11/2018, tại Chợ Đồng Trạch, huyện Bố Trạch, Lê Trường B đã lén lút lấy trộm 01 xe mô tô nhãn hiệu SIRIUS, màu đỏ đen, BKS 73F1 - 373.58 của chị Dương Thị Q, trị giá 16.920.000 đồng (mười sáu triệu chín trăm hai mươi ngàn đồng).

[3] Xét quá trình nhân thân, tính chất hành vi, mức độ hậu quả do hành vi phạm tội của bị cáo gây ra, thấy rằng:

Bị cáo là người có đầy đủ năng lực hành vi khi thực hiện phạm tội, hành vi của các bị cáo là nguy hiểm cho xã hội được quy định trong Bộ luật hình sự, xâm phạm đến khách thể là quyền sở hữu tài sản của người khác với lỗi cố ý trực tiếp , bị cáo đã lợi dụng sự sơ hở của chủ sở hữu để thực hiện việc chiếm đoạt tài sản , bị cáo chiếm đoạt tài sản trị giá 16.920.000 đồng nên bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo quy định tại khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự là có căn cứ, đúng người, đúng tội. Đúng như Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân huyện Bố Trạch đã truy tố và kết luận của Kiểm sát viên tại phiên toà.

[4] Về tình tiết tăng nặng: Bị cáo không có tình tiết tăng nặng, tuy nhiên nhân thân của bị cáo quá xấu , từ năm 1999 đến nay đã rất nhiều lần bị kết án về tội xâm phạm quyền sở hữu, nhưng không lấy đó làm bài học để tu dưỡng bản thân , cải tạo trở thành công dân có ích cho xã hội mà lại tiếp tục lao vào con đường phạm tội Hiện nay bị cáo đang chấp hành bản án ngày 18/7/2019 của Toà án nhân dân huyện Đô Lương, tỉnh Nghệ An xử phạt 24 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”, nhưng không xác định bị cáo có tiền án vì hành vi phạm tội đang bị xét xử này xảy ra trước thời điểm bị cáo bị kết án tại bản án hiện nay đang chấp hành. Nhưng cần tổng hợp với hình phạt của bản án đang xét xử để buộc bị cáo chấp hành hình phạt chung của hai bản án là phù hợp.

[5] Về tình tiết giảm nhẹ : Quá trình điều tra bị cáo đã có thái độ thành khẩn khai báo, biết ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của mình.

Tình tiết giảm nhẹ này quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự, sẽ được xem xét khi quyết định hình phạt.

[6] Về hình phạt bổ sung đối với bị cáo: Xét thấy bị cáo có hoàn cảnh gia đình khó khăn, hiện nay chưa có công ăn việc làm ổn định , thu nhập thất thường nên cần miễn hình phạt bổ sung là hình phạt tiền đối với bị cáo là phù hợp.

[7] Vật chứng vụ án: Vật chứng Cơ quan điều tra đã xử lý đúng pháp luật nên miễn xét.

[8] Trách nhiệm dân sự:Đã được giải quyết xong và không có ai yêu cầu gì thêm nên miễn xét.

Tại phiên toà bị cáo nói lời sau cùng là đã thấy được hành vi của mình thực hiện là vi phạm pháp luật, xin Hội đồng xét xử xem xét cân nhắc cho bị cáo được hưởng mức án nhẹ để có điều kiện cải tạo tốt , sớm trở về với gia đình và hoà nhập cộng đồng làm ăn lương thiện.

[9] Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ khoản 1 Điều 173; Điều 56; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự; Điều 136 bộ luật tố tụng hình sự; Điều 23 Nghị quyết 326 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc Hội 14 quy định về án phí, lệ phí tòa án.

[1] Về tội danh: Tuyên bố bị cáo Lê Trường B phạm tội “Trộm cắp tài sản”.

[2] Về hình phạt: xử phạt: Lê Trường Bính 15 (mười lăm) tháng tù. Tổng hợp với hình phạt 24 tháng tù tại bản án số 63/2019/HSST ngày 18/7/2019 của Toà án nhân dân huyện Đô Lương , tỉnh Nghệ An, buộc bị cáo phải chấp hành hình phạt chung của hai bản án là 39 tháng tù,thời hạn tù tính từ ngày 12/3/2019.

[3] Về hình phạt bổ sung: Miễn hình phạt bổ sung là hình phạt tiền đối với bị cáo.

[4] Về xử lý vật chứng: Miễn xét.

[5] Về Trách nhiệm dân sự:Miễn xét.

[6] Về án phí: Buộc bị cáo Lê Trường B phải nộp 200.000đ án phí hình sự sơ thẩm để sung vào ngân sách nhà nước.

[7] Về quyền kháng cáo : Bị cáo có mặt tại phiên toà có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm (28/11/2019). Riêng người bị hại, những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan váng mặt tại phiên toà có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày bản án được tống đạt hợp lệ cho họ để yêu cầu Toà án cấp trên xét xử theo trình tự phúc thẩm.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

225
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 93/2019/HSST ngày 28/11/2019 về tội trộm cắp tài sản

Số hiệu:93/2019/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Bố Trạch - Quảng Bình
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 28/11/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về