Bản án 93/2019/DS-PT ngày 04/04/2019 về tranh chấp hợp đồng mua bán hàng hóa và đòi lại tài sản

TOÀ ÁN NHÂN DÂN TỈNH CÀ MAU

BẢN ÁN 93/2019/DS-PT NGÀY 04/04/2019 VỀ TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG MUA BÁN HÀNG HÓA VÀ ĐÒI LẠI TÀI SẢN

Vào ngày 04 tháng 4 năm 2019 tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Cà Mau xét xử phúc thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số: 64/2019/TLPT- DS ngày 27 tháng 02 năm 2019 về việc “V/v tranh chấp hợp đồng mua bán hàng hóa và đòi lại tài sản”.

Do Bản án dân sự sơ thẩm số: 03/2019/DS-ST ngày 16 tháng 01 năm 2019 của Tòa án nhân dân huyện Cái Nước bị kháng cáo.

Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số: 94/2019/QĐPT-DS ngày 14 tháng 3 năm 2019 giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Ông Đặng Hoàng R - Sinh năm 1976 (vắng mặt).

Người đại diện hợp pháp của ông R: Bà Lê Ngọc V, sinh năm 1979; theo Giấy ủy quyền ngày 20 tháng 11 năm 2018 (có mặt).

Cùng cư trú tại: ấp C, xã H, huyện C, tỉnh C ..

- Bị đơn: 1. Ông Lê Thanh H, sinh năm 1966 (vắng mặt).

2. Bà Đoàn Kim T, sinh năm 1966 (có mặt)

Người đại diện hợp pháp của ông H: Bà Đoàn Kim T, sinh năm 1966; theo Giấy ủy quyền ngày 20 tháng 10 năm 2018 (có mặt).

Cùng cư trú tại: ấp L, xã H, huyện C ., tỉnh Cà Mau.

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Bà Lê Ngọc V – Sinh năm 1979; cư trú tại: ấp C, xã H, huyện C, tỉnh C. (có mặt).

- Người kháng cáo: Bà Đoàn Kim T – Là bị đơn.

NỘI DUNG VỤ ÁN

- Theo phía nguyên đơn trình bày trình bày: Vào năm 2013, ông Rơi có bán cho vợ chồng ông Lê Thanh H và bà Đoàn Thị Tím thức ăn để nuôi tôm công nghiệp, ông R không có mở đại lý mà chỉ mua để sử dụng nuôi tôm tại nhà và chia lại cho các hộ lân cận. Việc mua bán giữa hai bên không có làm hợp đồng mà chỉ thỏa thuận bằng miệng, các bên tự theo dõi và ghi vào sổ, khi đó ông có đồng ý gói đầu cho ông H và bà T trước một vụ tôm. Ông bán thức ăn nuôi tôm cho ông H và bà T từ năm 2013 đến ngày 03 tháng 9 năm 2015 hai bên kết nợ với nhau thì ông H và bà T còn nợ ông R số tiền 60.331.000 đồng. Do ông H, bà T không thanh toán nợ còn thiếu cho ông R nên ông R không bán thức ăn tôm cho ông H và bà T nữa. Ông H và bà T có hứa sẽ trả nợ dần cho ông hàng tháng đến đầu năm 2018 sẽ trả xong nợ thì ông đồng ý. Tuy nhiên, sau đó ông H và bà T không thực hiện việc trả nợ cho ông theo thỏa thuận. Đến ngày 15 tháng 7 năm 2018, ông H và bà T thu hoạch tôm có lãi nhưng không trả nợ cho ông nên ông mới yêu cầu địa phương giải quyết. Vào ngày 17-8-2018 tại buổi hòa giải của tổ hòa giải ấp Lý Ấn, xã Hưng Mỹ, ông H và bà T thừa nhận còn nợ ông R số tiền mua thức ăn tôm là 60.331.000 đồng.

Ông R xác định số tiền trên ông H và bà T nợ vợ chồng ông vì việc mua bán là do vợ chồng ông cùng thực hiện và vợ ông là bà Lê Ngọc V có trực tiếp đến đòi nợ vợ chồng ông H và bà T nhiều lần nên ông yêu cầu Tòa án nhân dân huyện Cái Nước giải quyết buộc ông Lê Thành Hùng và bà Đoàn Thị Tím trả cho vợ chồng ông số tiền mua thức ăn nuôi tôm công nghiệp còn nợ là 60.331.000 đồng (Sáu mươi triệu ba trăm ba mươi mốt nghìn đồng), không yêu cầu tính lãi.

- Theo phía bị đơn trình bày: Vào năm 2014 bà T và ông H có mua thức ăn nuôi tôm công nghiệp của ông Đặng Hoàng R, khi mua thì hai bên chỉ thỏa thuận bằng miệng không có làm hợp đồng. Hai bên có thỏa thuận ông R đầu tư bán thức ăn cho bà T và ông H nuôi tôm, khi nào thu hoạch không gặp rủi ro thì bà T và ông H sẽ trả đủ số tiền thức ăn mà ông R đã bán của vụ đó, còn trường hợp vụ nuôi tôm thất bại, gặp rủi ro thì ông R tiếp tục bán thức ăn cho bà T và ông H. Khi nào thu hoạch được tôm thì bà T và ông H sẽ trả số tiền thức ăn tôm cho ông R.

Trong quá trình nuôi tôm, 02 vụ đầu đạt kết quả nhưng hai vụ tiếp theo thì thất bại nên không có khả năng thanh toán nợ cho ông R. Đến tháng 09 năm 2015 giữa bà T, ông H và ông R có kết nợ lại với nhau, khi đó số tiền bà và ông H còn nợ ông R là 60.331.000 đồng. Từ đó, hai bên cũng ngừng việc mua bán thức ăn nuôi tôm. Sau đó bà T, ông H và ông R có thỏa thuận việc trả nợ với nhau bằng hình thức tích lũy hụi cụ thể như sau:

Ông R sẽ tham gia hụi dùm cho vợ chồng bà T, vợ chồng bà T sẽ đóng hụi hàng tháng đến khi nào mãng hụi sẽ lấy số tiền hốt hụi trả cho ông R. Vào ngày 15-12-2015 âm lịch, ông R có tham gia dùm bà T 01 chân hụi do anh Động và chị Chi làm chủ, loại hụi 1.000.000 đồng, mỗi tháng khui một lần, dây hụi có 21 chân, chân hụi này do ông R đứng tên trong danh sách hụi. Thời gian đầu do ông R trực tiếp đóng hụi được hai lần, sau đó bà T trả tiền lại cho ông R. Do việc đóng hụi như vậy khó khăn nên bà T có thỏa thuận với ông R rằng sau này sẽ do bà trực tiếp đóng hụi cho anh Động và chị Chi. Vì vậy, sáu lần tiếp theo do bà T trực tiếp đóng hụi cho anh Động và chị Chi. Khi anh Động và chị Chi đến gom tiền hụi thì bà yêu cầu anh Động và chị Chi viết danh sách hụi để bà theo dõi, mỗi người viết một danh sách. Các lần bà đóng hụi cho anh Động và chị Chi không có ai chứng kiến. Sau khi hụi chết được 08 (tám) lần đến lần thứ chín thì bà T không thấy anh Động và chị Chi gom hụi bà nên bà mới gọi điện thoại cho anh Động, chị Chi hỏi thăm thì được biết ông R đã hốt. Bà có gọi điện thoại cho ông R ra giáp mặt với chủ hụi để giải quyết nhưng ông R tránh mặt. Sau khi ông R hốt hụi thì chủ hụi trực tiếp gom hụi chết từ ông R mà không gom hụi từ bà T nữa. Hụi này ông R tham gia dùm bà nhưng ông R tự ý hốt hụi không cho bà biết, dây hụi này có 21 chân, tính đến ngày mãng hụi hốt được số tiền 20.000.000 đồng, trường hợp nếu ông R không hốt thì bà vẫn đóng hụi đầy đủ cho anh Động và chị Chi. Trước khi tiến hành hòa giải giữa các bên, bà T có đơn yêu cầu phản tố yêu cầu ông rơi trả cho bà số tiền hụi mà ông R đã hốt là 20.000.000 đồng.

Ngoài ra, bà T còn tham gia 01 chân hụi trong dây hụi khác do vợ chồng anh Động và chị Chi làm chủ, dây hụi loại 1.000.000 đồng, mỗi tháng khui một lần. Dây hụi này mở sau dây hụi ông R tham gia dùm cho vợ chồng bà T nên không có liên quan.

Tại phiên tòa, bà T thừa nhận còn nợ vợ chồng ông R và bà V số tiền mua thức ăn tôm là 60.331.000 đồng nhưng phải đối trừ số tiền hụi 20.000.000 đồng, bà T và ông H đồng ý trả cho ông R, bà V số tiền là 40.331.000 đồng..

- Theo người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trình bày: Bà Lê Ngọc V thống nhất lời trình bày và yêu cầu khởi kiện của ông R. Bà V cho rằng số thức ăn nuôi tôm bán cho ông H, bà T là tài sản chung của bà và ông R. Bà biết việc mua bán giữa hai bên và bà cũng có đến đòi nợ nhiều lần nhưng phía ông H, bà T không trả nợ. Bà T và ông H hứa trả nợ hàng tháng đến đầu năm 2018 sẽ trả hết nợ nhưng đến hạn ông H và bà T vẫn không trả nợ. Bà V có biết việc ông R có tham gia 01 chân hụi do anh Động, chị Chi làm chủ, đối với việc bà T cho rằng ông R có tham gia dùm bà T 01 chân hụi do anh Động và chị Chi làm chủ thì bà V không hay biết. Do đó, bà V yêu cầu ông H và bà T trả cho vợ chồng bà số tiền nợ thức ăn tôm là 60.331.000 đồng.

Từ nội dung trên, tại Bản án dân sự sơ thẩm số: 03/2019/DS-ST ngày 16 tháng 01 năm 2019 của Tòa án nhân dân huyện Cái Nước quyết định:

Căn cứ: Các Điều 26; 35; 39; 147, 266, 271, 273 Bộ luật tố tụng Dân sự; Các Điều 166, 357, 430, 440, 468 Bộ luật Dân sự. Điều 26 Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Tuyên xử:

Chấp nhận toàn bộ yêu cầu của ông Đặng Hoàng R đối với ông Lê Thanh H và bà Đoàn Kim T.

Buộc ông Lê Thanh H và bà Đoàn Kim T trả cho vợ chồng ông Đặng Hoàng R, bà Lê Ngọc V số tiền 60.331.000 đồng (Sáu mươi triệu ba trăm ba mươi mốt nghìn đồng).

Không chấp nhận yêu cầu phản tố của bà Đoàn Kim T đối với ông Đặng Hoàng R về việc buộc ông R trả cho bà số tiền hụi 20.000.000 đồng (Hai mươi triệu đồng).

Ngoài ra, án sơ thẩm còn tuyên về nghĩa vụ thi hành án, án phí và quyền kháng cáo theo luật định.

Ngày 28 – 01 - 2019, Đoàn Kim T yêu cầu sửa một phần Bản án sơ thẩm, yêu cầu đối trừ số tiền 20.000.000 đồng tiền hụi do ông R chơi dùm; phần nợ tiền thức ăn nuôi tôm bà T đồng ý nhận nợ.

Tại phiên tòa phúc thẩm: Bà Đoàn Kim T giữ nguyên yêu cầu kháng cáo.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Cà Mau phát biểu: Về tố tụng, Thẩm phán, Hội đồng xét xử tiến hành đúng theo quy định của pháp luật tố tụng và các đương sự cũng chấp hành đúng với quyền và nghĩa vụ của các đương sự được pháp luật quy định. Về nội dung, đề nghị Hội đồng xét xử phúc thẩm: Căn cứ khoản 1 Điều 308 Bộ luật tố tụng dân sự, tuyên xử không chấp nhận yêu cầu kháng cáo của bà Đoàn Kim T, giữ nguyên Bản án sơ thẩm.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

[1] Xét kháng cáo của bà Đoàn Kim T yêu cầu sửa một phần Bản án sơ thẩm, yêu cầu đối trừ số tiền 20.000.000 đồng tiền hụi do ông R chơi dùm. Hội đồng xét xử thấy rằng:

[2] Xét thấy giữa ông H, bà T với ông R, bà V có hợp đồng mua bán thức ăn tôm với nhau. Cụ thể từ năm 2013 đến năm 2015, ông H và bà T có mua thức ăn tôm của ông R và bà V, việc mua bán hai bên chỉ thỏa thuận miệng, không có ai chứng kiến. Đến ngày 03 tháng 9 năm 2015 hai bên ngừng việc mua bán và kết nợ với nhau, thì phía ông H và bà T còn nợ ông R và bà V số tiền 60.331.000 đồng, các bên có thỏa thuận để cho phía bà T và ông H trả dần hàng tháng đến đầu 2018 sẽ trả hết nợ, nhưng đến nay vẫn chưa trả là thực tế có xảy ra, được các bên thừa nhận. Như vậy, việc mua bán giữa hai bên đã thực hiện xong, hai bên cũng đã kết nợ với nhau vào năm 2015. Bên mua là phía ông H và bà T cũng đã thừa nhận còn nợ ông R, bà V tiền thức ăn tôm là 60.331.000 đồng đến nay chưa trả. Ông R và bà V yêu cầu ông H và bà T trả nợ với số tiền 60.331.000 đồng. Bản án sơ thẩm tuyên xử chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn, buộc bị đơn trả số tiền 60.331.000 đồng là có căn cứ.

[3] Đối với yêu cầu phản tố của bị đơn cho rằng, việc nguyên đơn khởi kiện yêu cầu bà T và ông H trả nợ với số tiền 60.331.000 đồng thì bà đồng ý trả, nhưng bà có yêu cầu phản tố buộc ông R trả cho bà 20.000.000 đồng tiền hụi, sau khi đối trừ bà chỉ đồng ý trả cho vợ chồng ông R 40.331.000 đồng. Xét yêu cầu phản tố của bà T, thấy rằng: Việc bà T cho rằng bà có nhờ ông R tham gia dùm bà 01 chân hụi 1.000.000 đồng/tháng do anh Động và chị Chi làm chủ, sau đó bà T có trực tiếp đóng hụi cho anh Động, chị Chi được 06 (sáu) lần, nhờ anh R đóng dùm bà 02 (hai) lần, tổng cộng là 08 (tám) lần nhưng vấn đề này các bên không lập thành văn bản mà chỉ thỏa thuận bằng miệng và không có ai chứng kiến. Bà T yêu cầu ông R trả 20.000.000 đồng tiền hụi và đối trừ vào số tiền nợ 60.331.000 đồng, bà đồng ý tiếp tục đóng hụi sống cho chủ hụi, đồng thời ông R bỏ thêm tiền để đóng hụi chết cho chủ hụi, bởi lý do ông R đã tự ý hốt hụi của bà. Đối chiếu danh sách hụi viên ngày 15 – 12 – 2015 do đương sự cung cấp thì ông R trực tiếp đứng tên hụi viên, không có tên bà T. Tại Biên bản hòa giải ngày 17- 8 - 2018 tại ấp L, xã H, huyện C . thì không có thể hiện nội dung là ông R có thừa nhận việc tham gia dùm bà T 01 chân hụi 1.000.000 đồng/tháng do anh Động và chị Chi làm chủ. Theo Tờ tường thuật ngày 24 -10 - 2018 của anh Trịnh Văn Động, chị Nguyễn Thị Chi; và tại Biên bản xác minh ngày 12 tháng 12 năm 2018 của Tòa án nhân dân huyện Cái Nước đối với anh Trịnh Văn Động và chị Nguyễn Thị Chi, thì anh Động và chị Chi cho rằng: Ông R có tham gia của vợ chồng anh chị 01 chân hụi 1.000.000 đồng/tháng, chân hụi này do ông R trực tiếp tham gia và hốt hụi, sau khi hốt hụi ông R trực tiếp đóng hụi chết cho vợ chồng anh chị đến khi mãn hụi. Anh chị không biết việc bà T có nhờ ông R tham gia hụi do anh chị làm chủ. Anh Động, chị Chi cũng cho rằng bà T cũng có tham gia hụi của anh chị làm chủ. Chân hụi này bà T đã hốt và hiện tại hụi đã mãn. Trong quá trình giải quyết vụ án tại cấp sơ thẩm bà T và ông H không cung cấp được chứng cứ chứng minh cho yêu cầu phản tố của mình, nên cấp sơ thẩm đã không chấp nhận yêu cầu phản tố của bị đơn là phù hợp.

[4] Tại cấp phúc thẩm, bà T có xuất trình 01 USB (bà T không xuất trình từ cấp sơ thẩm). Qua nghe tập tin (file) ghi âm cuộc hội thoại trong đó có phiên diễn ra hòa giải của các bên tại địa phương (ấp Lý Ấn), có tập tin (file) bà T hỏi lại người hòa giải về nội dung tiền hụi, song các tập tin trên đều nghe không rõ, rất ồn ào, và không có nội dung nào thể hiện rõ ràng là ông R thừa nhận có nợ tiền hụi bà T do ông R chơi dùm. Trong khi đó, tại phiên tòa phúc thẩm, đại diện nguyên đơn xác định, trước đây ông R có dự định vô dùm cho bà T 01 chân hụi, nhưng do bà T không đóng, nên ông R tự đăng ký tên để ông R chơi, ông R hốt hụi, điều này có sự xác nhận của chủ hụi. Do đó Hội đồng xét xử không có cơ sở chấp nhận yêu cầu kháng cáo của bà T; giữ nguyên bản án sơ thẩm là phù hợp.

[5] Xét đề nghị của đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Cà Mau: Không chấp nhận yêu cầu kháng cáo, giữ nguyên bản bản sơ thẩm là phù hợp.

[6] Đối với việc bà T cho rằng bà có đóng hụi cho anh Động và chị Chi được 08 (tám) lần, đến lần hụi thứ 09 (chín) thì anh Động và chi Chi cho ông R hốt hụi, nhưng không cho bà T hay. Tuy nhiên, nội dung này về sau giữa bà T với vợ chồng anh Động, chị Chi có phát sinh tranh chấp thì bà T có quyền khởi kiện thành vụ kiện dân sự khác theo quy định pháp luật.

[7] Do không chấp nhận yêu cầu kháng cáo, nên bà Đoàn Kim T phải chịu án phí phúc thẩm, bà T đã dự nộp 300.000 đồng tại Chi cục thi hành án dân sự huyện Cái Nước được chuyển thu đối trừ.

[8] Những quyết định khác của án sơ thẩm không bị kháng cáo, kháng nghị có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ khoản 1 Điều 308 của Bộ luật tố tụng dân sự; Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án.

Không chấp nhận yêu cầu kháng cáo bà Đoàn Kim T. Giữ nguyên Bản án dân sự sơ thẩm số: 03/2019/DS-ST ngày 16 tháng 01 năm 2019 của Tòa án nhân dân huyện Cái Nước, tỉnh Cà Mau.

Tuyên xử:

1. Chấp nhận toàn bộ yêu cầu của ông Đặng Hoàng R đối với ông Lê Thanh H và bà Đoàn Kim T.

Buộc ông Lê Thanh H và bà Đoàn Kim T trả cho vợ chồng ông Đặng Hoàng R, bà Lê Ngọc V số tiền 60.331.000 đồng (Sáu mươi triệu ba trăm ba mươi mốt nghìn đồng).

2. Không chấp nhận yêu cầu phản tố của bà Đoàn Kim T đối với ông Đặng Hoàng R về việc buộc ông R trả cho bà số tiền hụi 20.000.000 đồng (Hai mươi triệu đồng).

Kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án cho đến khi thi hành xong, tất cả các khoản tiền hàng tháng bên thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất quy định tại khoản 2 Điều 468 của Bộ luật dân sự năm 2015.

3 Về án phí:

- Về án phí dân sự sơ thẩm:

Buộc ông H và bà T phải chịu án phí dân sự sơ thẩm có giá ngạch là 4.016.500 đồng (làm tròn số), bà T có dự nộp 500.000 đồng theo biên lai thu tiền số0004874 ngày 29 tháng 10 năm 2018 của Chi cục thi hành án dân sự  huyện Cái Nước, sau khi đối trừ bà T và ông H phải nộp tiếp 3.516.500 đồng.

Ông Đặng Hoàng R, bà Lê Ngọc V không phải chịu án phí dân sự sơ thẩm.

Ông R đã dự nộp số tiền tạm ứng án phí là 1.508.000 đồng theo biên lai thu tiền số: 0004796 ngày 02-10-2018 của Chi cục thi hành án dân sự huyện Cái Nước, được nhận lại toàn bộ.

- Án phí phúc thẩm: Bà Đoàn Kim T phải chịu 300.000 đồng, đã dự nộp theo biên lai thu số: 0005109 ngày 31-01-2019 tại Chi cục thi hành án dân sự huyện Cái Nước được chuyển thu đối trừ.

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a, 7b và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

397
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 93/2019/DS-PT ngày 04/04/2019 về tranh chấp hợp đồng mua bán hàng hóa và đòi lại tài sản

Số hiệu:93/2019/DS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Cà Mau
Lĩnh vực:Dân sự
Ngày ban hành: 04/04/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về