TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ QUY NHƠN, TỈNH BÌNH ĐỊNH
BẢN ÁN 92/2021/HS-ST NGÀY 07/06/2021 VỀ TỘI CỐ Ý LÀM HƯ HỎNG TÀI SẢN
Ngày 07 tháng 6 năm 2021 tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Quy Nhơn, tỉnh Bình Định xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 74/2021/TLST- HS ngày 04 tháng 5 năm 2021 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số:143/2021/QĐXXST-HS ngày 21 tháng 5 năm 2021 đối với bị cáo:
Nguyễn Ngọc T; sinh năm X tại thành phố Q, tỉnh Bình Định; nơi cư trú: Tổ M, khu vực N, phường H, thành phố Q, tỉnh Bình Định; nghề nghiệp: Thợ; trình độ văn hoá (học vấn): 09/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Cao Đài; quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn X (chết) và bà Phạm Thị T (chết); có vợ (đã ly hôn) và 02 con; tiền án: 01 – ngày 28-11-2019 bị Tòa án nhân dân thành phố Q xử phạt 06 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”, chấp hành xong hình phạt ngày 19-9-2020; tiền sự: 01 – ngày 16-10-2019 bị Công an thành phố Q xử phạt vi phạm hành chính số tiền 1.500.000 đồng về hành vi trộm cắp tài sản, chưa chấp hành nộp phạt; nhân thân:
Ngày 28-7-2004 bị Tòa án nhân dân tỉnh B xử phạt 03 năm tù về tội “Cố ý gây thương tích”;
Ngày 17-4-2008 bị Tòa án nhân dân thành phố Q xử phạt 06 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”;
Ngày 14-11-2012 bị Tòa án nhân dân thành phố Q xử phạt 02 năm tù về tội “Trộm cắp tài sản”;
Các án tích đó đã được xóa; bị cáo bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 17-02-2021 đến nay; có mặt.
- Bị hại:
1. Anh Nguyễn Hữu T; sinh năm X; nơi cư trú: Số nhà K, đường L, phường H, thành phố Q, tỉnh Bình Định; vắng mặt.
2. Chị Nguyễn Thị Ngọc T; sinh năm X; nơi cư trú: Số nhà K, đường L, phường H, thành phố Q, tỉnh Bình Định; vắng mặt.
- Người làm chứng: Chị Nguyễn Thị Kim L; sinh năm X; nơi cư trú: Số nhà L, đường Đ, phường H, thành phố Q, tỉnh Bình Định; vắng mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Trưa ngày 25-9-2020, sau khi uống rượu, Nguyễn Ngọc T đi bộ đến nhà của anh Nguyễn Hữu T để hỏi giấy tờ ngôi nhà của T mà T nghe nói cha mình đã nhờ anh T giữ hộ (thực tế ngôi nhà trên không có giấy tờ). Thấy T say nên anh T bảo T đi về chiều đến nói chuyện. Sau đó, T đi về nhà; đến khoảng 16 giờ 50 phút cùng ngày, T lại đi bộ đến nhà anh T để hỏi về giấy tờ nhà. Lúc này, anh T đang làm việc (làm nhôm, sắt) ở phía sau nhà; khi T đến hỏi thì anh T nói không có giữ giấy tờ nhà của T nên T đã chửi bới, đá đồ nghề của anh T. Anh T bực tức dùng tay tát T một cái nhưng chưa gây thương tích. Sau đó, chị Nguyễn Thị Kim L đến can ngăn, chị Nguyễn Thị Ngọc T đến đưa T đi ra phía trước nhà. T nhặt cục gạch, loại 06 lỗ, ở trước ngõ rồi đi vào đứng ngay cửa nhà ném vào bên trong nhà của anh T làm bể 01 màn hình ti vi hiệu TCL, 49 inch, model L49C2-UF, sản xuất năm 2008, đang treo tường; viên gạch rơi xuống làm vỡ 01 tấm kính trong loại 04 li, có kích thước 55cm x 48cm, tại bàn thờ thần tài. Nghe tiếng đổ vỡ, anh T đi lên thấy hư hỏng tài sản nên yêu cầu T đi cùng mình đến Công an phường H để giải quyết. Theo Kết luận định giá tài sản ngày 15- 12-2020 của Hội đồng định giá trong tố tụng hình sự thành phố Quy Nhơn, màn hình ti vi bị hư hỏng hoàn toàn, giá trị chi phí nhân công và vật tư thay thế tại thời điểm là 4.800.000 đồng; tấm kính đã qua sử dụng trị giá 30.000 đồng; tổng giá trị tài sản bị hư hỏng là 4.830.000 đồng.
Về vật chứng: Cơ quan điều tra Công an thành phố Quy Nhơn đã ra quyết định xử lý vật chứng trả lại ti vi hiệu TCL cho anh T và đã chuyển cho Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Quy Nhơn theo Biên bản giao, nhận vật chứng ngày 07-5-2021 vật chứng gồm: 01 viên gạch bằng đất nung, loại 06 lỗ, bị vỡ còn 04 lỗ.
Về dân sự: Anh T, chị T đã nhận lại ti vi hiệu TCL và không yêu cầu bồi thường giá trị sửa chữa ti vi cũng như tấm kính bị vỡ.
Bản cáo trạng số 87/CT-VKS ngày 04-5-2021 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Quy Nhơn truy tố bị cáo Nguyễn Ngọc T về tội “Cố ý làm hư hỏng tài sản” theo khoản 1 Điều 178 của Bộ luật Hình sự.
* Tại phiên tòa:
Bị cáo Nguyễn Ngọc T thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình theo như bản cáo trạng đã nêu và các chứng cứ mà cơ quan cảnh sát điều tra đã thu thập. Bị cáo xin Tòa xử phạt nhẹ.
Trong phần luận tội, Kiểm sát viên giữ nguyên quyết định truy tố bị cáo như bản cáo trạng và đề nghị Hội đồng xét xử:
- Áp dụng khoản 1 Điều 178; điểm s khoản 1 Điều 51; điểm h khoản 1 Điều 52 của Bộ luật Hình sự; tuyên phạt bị cáo Nguyễn Ngọc T từ 12 – 18 tháng tù về tội “Cố ý làm hư hỏng tài sản”.
- Xử lý vật chứng: Áp dụng Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự; tịch thu tiêu hủy 01 viên gạch bằng đất nung, loại 06 lỗ, bị vỡ còn 04 lỗ.
- Về trách nhiệm dân sự: Do bị hại không yêu cầu nên không xem xét.
Trong lời nói sau cùng, bị cáo T nhận thức được hành vi của bị cáo là sai, bị cáo rất ăn năn và xin xử phạt mức án nhẹ nhất để sớm được trở về với gia đình lo cho các con.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra, Điều tra viên, Viện kiểm sát, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố bảo đảm tính hợp pháp về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự; bị cáo, bị hại và những người tham gia tố tụng khác không có ý kiến khiếu nại.
[2] Bị cáo Nguyễn Ngọc T đã trên 18 tuổi, có đầy đủ khả năng nhận thức và điều khiển hành vi để lựa chọn xử sự đúng đắn. Tuy nhiên, vào ngày 25-9-2020 bị cáo đã lợi dụng men rượu đến nhà của anh T để đòi giấy tờ nhà, khi anh T nói không có cất giữ thì bị cáo đã chửi bới; sau đó, bị cáo đã lấy viên gạch ném vào trong nhà gây hư hỏng tài sản cho vợ chồng anh T gồm 01 ti vi hiệu TCL và 01 tấm kính với tổng thiệt hại là 4.830.000 đồng. Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm quyền sở hữu tài sản của người khác, có đủ yếu tố cấu thành tội “Cố ý làm hư hỏng tài sản” theo khoản 1 Điều 178 của Bộ luật Hình sự.
[3] Bị cáo phạm tội khi mới chấp hành xong hình phạt 06 tháng tù của Bản án số 170/2019/HSST ngày 28-11-2019 của Tòa án nhân dân thành phố Q, chưa được xóa án tích; đây là tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự “Tái phạm” quy định tại điểm h khoản 1 Điều 52 của Bộ luật Hình sự. Mặc khác, bị cáo còn có 01 tiền sự về hành vi trộm cắp tài sản, nhân thân của bị cáo đã từng bị Tòa án kết án phạt tù 03 lần vào các năm 2004, 2008 và 2012 nhưng bị cáo đã không tích cực sửa đổi để làm tròn trách nhiệm với gia đình và xã hội. Trong giai đoạn điều tra, bị cáo đã cố tình trốn tránh, không có ý thức hối cải, gây khó khăn cho hoạt động điều tra. Do đó, Hội đồng xét xử thấy rằng cần thiết phải xử phạt nghiêm bị cáo, cách ly bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian để răn đe, giáo dục riêng bị cáo và phòng ngừa chung cho những trường hợp tương tự. Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo đã thành khẩn khai báo; đó là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự, sẽ được Hội đồng xét xử cân nhắc khi xem xét quyết định hình phạt. Do bị cáo không có công việc và thu nhập ổn định nên không áp dụng hình phạt bổ sung phạt tiền đối với bị cáo.
[4] Về vật chứng, ngoài vật chứng mà cơ quan điều tra đã hoàn trả cho bị hại còn có vật chứng đã chuyển cho cơ quan thi hành án gồm 01 viên gạch bằng đất nung, loại 06 lỗ, bị vỡ còn 04 lỗ là công cụ phạm tội không có giá trị cần phải tịch thu tiêu hủy theo quy định tại điểm a khoản 2 Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự.
[5] Về trách nhiệm bồi thường thiệt hại, do bị hại không yêu cầu nên Hội đồng xét xử không xem xét.
[6] Trong phần luận tội, vị đại diện Viện kiểm sát đã chứng minh được hành vi phạm tội của bị cáo, các tình tiết đánh giá về nhân thân của bị cáo, các tình tiết tăng nặng, tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự là phù hợp với nhận định nêu trên của Tòa án.
[7] Về án phí, bị cáo T phải chịu án phí sơ thẩm hình sự theo quy định tại khoản 2 Điều 135, khoản 2 Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự và Điều 23 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
1. Tuyên bố bị cáo Nguyễn Ngọc T phạm tội “Cố ý làm hư hỏng tài sản”.
Áp dụng khoản 1 Điều 178; điểm s khoản 1 Điều 51; điểm h khoản 1 Điều 52 của Bộ luật Hình sự; xử phạt Nguyễn Ngọc T 09 (chín) tháng tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày tạm giam 17-02-2021.
2. Xử lý vật chứng: Áp dụng điểm a khoản 2 Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự; tịch thu tiêu hủy 01 viên gạch bằng đất nung, loại 06 lỗ, bị vỡ còn 04 lỗ theo Biên bản giao, nhận vật chứng ngày 07-5-2021 của Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Quy Nhơn.
3. Áp dụng khoản 2 Điều 135, khoản 2 Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự và Điều 23 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án; buộc bị cáo Nguyễn Ngọc T phải chịu án phí sơ thẩm hình sự là 200.000 đồng.
4. Bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án. Bị hại vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày nhận được bản án hoặc kể từ ngày bản án được niêm yết theo quy định của pháp luật.
Bản án 92/2021/HS-ST ngày 07/06/2021 về tội cố ý làm hư hỏng tài sản
Số hiệu: | 92/2021/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Thành phố Qui Nhơn - Bình Định |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 07/06/2021 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về