Bản án 92/2020/ST-HNGĐ ngày 26/08/2020 về yêu cầu ly hôn

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN A, TỈNH NGHỆ AN

BẢN ÁN 92/2020/ST-HNGĐ NY 26/08/2020 VỀ YÊU CẦU LY HÔN

Ngày 26/8/2020 tại Trụ sở Tòa án nhân dân huyện A, tỉnh Nghệ An xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 68/2020/TLST – HNGĐ ngày 08/6/2020 về việc “Yêu cầu ly hôn” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 37/2020/QĐXXST – HNGĐ ngày 12/8/2020 giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn : Anh Đặng Xuân T – Sinh năm: 1986 Trú tại: Xóm 7 L, xã T, huyện T, tỉnh Nghệ An – Vắng mặt (Có đơn đề nghị xét xử vắng mặt).

2. Bị đơn : Chị Trần Thị H – Sinh năm: 1981 Trú tại: Thôn 04 (xóm 5 cũ), xã L, huyện A, tỉnh Nghệ An – Vắng mặt không có lý do.

3. Người làm chứng: Bà Trần Thị M – Sinh năm: 1935 ( mẹ đẻ của chị Trần Thị H).

Trú tại: Thôn 04 (xóm 5 cũ), xã L, huyện A, tỉnh Nghệ An – Vắng mặt

NỘI DUNG VỤ ÁN

 - Tại phiên tòa hôm nay nguyên đơn anh Đặng Xuân T vắng mặt, nhưng trong đơn khởi kiện đề ngày 20/01/2020 và lời khai tiếp theo trong quá trình giải quyết vụ án anh Đặng Xuân T trình bày:

Anh Đặng Xuân T kết hôn với chị Trần Thị H vào ngày 27 tháng 11 năm 2017, có đăng ký kết hôn tại UBND xã L, huyện A, tỉnh Nghệ An trên tinh thần tự nguyện. Tuy nhiên, sau một thời gian rất ngắn, đến cuối năm 2017 thì vợ chồng bắt đầu xẩy ra mâu thuẫn, nguyên nhân mâu thuẫn là vợ chồng bất đồng quan điểm sống, tính cách không hợp nhau nên thường xẩy ra cãi cọ, không có tiếng nói chung. Vì vậy vợ chồng đã sống ly thân với nhau từ cuối năm 2017 cho đến nay. Hiện tại vợ chồng không còn tình cảm với nhau nên đề nghị Tòa án giải quyết cho vợ chồng được ly hôn.

Về con chung: Vợ chồng chưa có con Về tài sản chung và nợ: Không có, không yêu cầu Toà án giải quyết.

- Trong quá trình giải quyết vụ án và tại phiên tòa, bị đơn là chị Trần Thị H vắng mặt nên không có ý kiến.

- Tại phiên tòa hôm nay người làm chứng là bà Trần Thị M vắng mặt nhưng trong quá trình giải quyết vụ án bà Trần Thị M trình bày:

Chị Trần Thị H là con gái của bà Trần Thị M, chị H và anh T kết hôn vào tháng 11/2017, có đăng ký kết hôn tại UBND xã L, huyện A, tỉnh Nghệ An. Sau khi kết hôn hai người sống với nhau được thời gian thì phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân mâu thuẫn là vợ chồng bất đồng quan điểm sống, tính cách không hợp nhau, thường xuyên xẩy ra cãi vã. Nên đến cuối năm 2017 vợ chồng sống ly thân, chị H về sống chung với bà Trần Thị M, còn anh T thì sống chung với bố mẹ anh T ở huyện T, một thời gian thì chị H đi làm ăn xa. Khoảng 1 năm sau chị H có về thăm nhà và thỉnh thoảng có gọi điện thoại hỏi thăm bà. Bà Trần Thị M có hỏi chị H làm gì, ở đâu nhưng chị H chỉ nói làm đang làm việc tại thành phố Đà Lạt, không nói địa chỉ cụ thể. Khi Tòa án gửi các văn bản tố tụng và các tài liệu chứng cứ cho chị H về việc anh T yêu cầu ly hôn thì bà M đã nhận và gọi điện báo cho chị H biết. Chị H nói, vợ chồng mâu thuẫn thì ly hôn nhưng do hiện nay chị H đi làm ăn xa không về được nên đề nghị Tòa án giải quyết vắng mặt chị H.

Về con chung: Vợ chồng chưa có con chung.

Về tài sản chung: Không có tài sản chung.

- Tại phiên Tòa đại diện viện kiểm sát nhân dân huyện A phát biểu ý kiến về vụ án và về việc tuân theo pháp luật tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án như sau:

Về việc tuân theo pháp luật: Trong quá trình giải quyết vụ án Thẩm phán, Hội đồng xét xử và Thư ký đã thực hiện đúng trình tự tố tụng theo quy định của Bộ luật tố tụng dân sự. Nguyên đơn có đơn đề nghị giải quyết vắng mặt, bị đơn đã được tống đạt hợp lệ lần thứ 2 nhưng vẫn vắng mặt nên HĐXX xét xử vụ án vắng mặt các đương sự là có căn cứ. Nhìn chung vụ án đã được thụ lý, điều tra và xét xử đúng trình tự theo quy định của Bộ luật tố tụng dân sự.

Về nội dung vụ án: Áp dụng khoản 1 điều 51; Khoản 1 điều 56 Luật hôn nhân gia đình; Điểm a, điểm b khoản 2 Điều 227; khoản 3 điều 228; Điều 238; khoản 4 điều 147 Bộ luật tố tụng Dân sự; Nghị quyết số 326 về án phí, lệ phí Tòa án. Đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu của nguyên đơn, cho anh Đặng Xuân T được ly hôn với chị Trần Thị H.

Về con chung: Không có con Về tài sản chung: Không xét Về án phí: Anh Đặng Xuân T phải chịu án phí ly hôn theo quy định của pháp luât.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ đã được thẩm tra tại phiên toà, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về thủ tục tố tụng: Trong quá trình giải quyết vụ án, chị Trần Thị H không có mặt tại địa phương, Tòa án đã giao các văn bản tố tụng và các tài liệu chứng cứ liên quan đến yêu cầu ly hôn giữa anh T và chị H cho bà Trần Thị M là mẹ đẻ của chị H nhận và bà M đã báo lại cho chị H biết nhưng chị H vẫn không đến Tòa án nhân dân huyện A, tỉnh Nghệ An để giải quyết theo yêu cầu của Tòa án, nên vụ án không tiến hành hòa giải được. Mặc dù chị H đã biết Tòa án đang giải quyết ly hôn theo yêu cầu của anh T, nhưng chị H không về, không cung cấp địa chỉ nơi cư trú và nơi làm việc của mình cho anh T và Tòa án biết. Tại phiên Tòa hôm nay mặc dù đã được Tòa án triệu tập lần thứ 2 nhưng chị H vẫn cố tình vắng mặt. Đối với anh T đã có đơn xin vắng mặt nên Tòa án nhân dân huyện A, tỉnh Nghệ An đưa vụ án ra xét xử vắng mặt các đương sự theo quy định tại điểm a, điểm b khoản 2 điều 227; khoản 3 điều 228; Điều 238 Bộ luật tố tụng dân sự là có căn cứ.

[2] Về nội dung vụ án: Anh Đặng Xuân T và chị Trần Thị H kết hôn với nhau vào ngày 27/11/2017 trên tinh thần tự nguyện, có đăng ký kết hôn tại UBND xã L, huyện A, tỉnh Nghệ An. Hôn nhân hợp pháp, đúng quy định của pháp luật.

Sau khi kết hôn thì anh Đặng Xuân T và chị Trần Thị H sống với nhau trong một thời gian rất ngắn thì phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân mâu thuẫn do vợ chồng bất đồng quan điểm trong cuộc sống, tính cách không hợp nhau. Vì vậy, thường xuyên phát sinh mâu thuẫn nên đã sống ly thân từ cuối năm 2017 cho đến nay. Sau khi sống ly thân, mỗi người một nơi, không quan tâm, hỏi thăm nhau. Chị H về sống với bà M được thời gian thì chị H đi làm ăn còn anh T sống với bố mẹ anh T tại xã T, huyện T, tỉnh Nghệ An. Trong quá trình giải quyết vụ án bà M khai là chị H đi làm ăn tại thành phố Đà Lạt, không biết địa chỉ cụ thể, từ khi đi chị H chỉ mới về thăm nhà được 01 lần, còn lại là liên lạc với bà qua điện thoại. Hiện nay, chị H đã biết Tòa án đang giải quyết ly hôn theo đơn khởi kiện của anh Đặng Xuân T nhưng chị H không về giải quyết và cũng không cung cấp địa chỉ cụ thể nơi sinh sống và làm việc của mình và đề nghị Tòa án giải quyết vắng mặt. Việc chị H không về để giải quyết vụ án theo giấy triệu tập của Tòa án và không cung cấp địa chỉ nơi cư trú và làm việc của mình là nhằm gây khó khăn cho việc giải quyết vụ án và cố tình che dấu địa chỉ nên Tòa án sẽ xét xử vụ án theo thủ tục chung do Bộ luật tố tụng dân sự quy định.

Xét thấy mục đích của hôn nhân vợ chồng là cùng nhau xây dựng gia đình hạnh phúc bền vững trên cơ sở cùng nhau chăm lo cuộc sống hiện tại và tương lai. Nhưng giữa anh T và chị H đã bỏ mặc nhau, không yêu thương, quý trọng, chăm sóc và giúp đỡ nhau, tình nghĩa vợ chồng không còn, mỗi người sống một nơi. Do đó hôn nhân giữa anh T và chị H đã lâm vào tình trạng trầm trọng, đời sống chung của vợ chồng không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không thể đạt được. Vì vậy, cần chấp nhân yêu cầu ly hôn của anh Đặng Xuân T là phù hợp với khoản 1 điều 51, khoản 1 điều 56 Luật hôn nhân gia đình và cũng phù hợp với nguyện vọng của chị H cũng mong muốn ly hôn với anh T.

Về con chung: Các đương sự khai không có con chung nên Hội đồng xét xử không xét.

Về tài sản chung và nợ: Các đương sự khai không có và không yêu cầu Toà án giải quyết nên Hội đồng xét xử không xét.

Về án phí: Anh Đặng Xuân T phải chịu án phí ly hôn theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên:

QUYẾT ĐỊNH

Áp dụng : Khoản 1 điều 51, khoản 1 điều 56 Luật Hôn nhân và gia đình;

Điểm a, điểm b, khoản 2 điều 227; khoản 3 điều 228; điều 238, khoản 4 điều 147 Bộ luật tố tụng dân sự; Điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH ngày 30 tháng 12 năm 2016.

Tuyên xử; - Về quan hệ hôn nhân: Cho anh Đặng Xuân T được ly hôn với chị Trần Thị H.

- Về án phí : Anh Đặng Xuân T phải nộp 300.000 đồng án phí ly hôn (Đã nạp theo biên lai số 0002000 ngày 05/6/2020 tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện A, tỉnh Nghệ An).

- Về quyền kháng cáo: Nguyên đơn, bị đơn có quyền kháng cáo lên Tòa án nhân dân tỉnh Nghệ An trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc ngày bản án được niêm yết công khai tại nơi cư trú.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

259
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 92/2020/ST-HNGĐ ngày 26/08/2020 về yêu cầu ly hôn

Số hiệu:92/2020/ST-HNGĐ
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Anh Sơn - Nghệ An
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 26/08/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về