TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN TÂN PHÚ, TỈNH ĐỒNG NAI
BẢN ÁN 92/2020/HNGĐ-ST NGÀY 28/09/2020 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON
Ngày 28 tháng 9 năm 2020, tại Tòa án nhân dân huyện Tân Phú, tỉnh Đồng Nai xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 146/2020/TLST-HNGĐ ngày 05 tháng 5 năm 2020, về việc: “Ly hôn, tranh chấp về nuôi con” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 97/2020/QĐXXST - HNGĐ ngày 27 tháng 8 năm 2020 và Quyết định hoãn phiên tòa số: 76/2020/QĐST - HNGĐ ngày 14 tháng 9 năm 2020 giữa các đương sự:
- Nguyên đơn: Bà Nguyễn Ngọc Ánh T, sinh năm 1982:
- Bị đơn: Ông Trần Văn Đ, sinh năm 1981:
Cùng địa chỉ: Ấp T L 1, xã P T, huyện T P, tỉnh Đồng Nai.
(Nguyên đơn đề nghị xét xử vắng mặt, bị đơn vắng mặt tại phiên tòa)
NỘI DUNG VỤ ÁN
Tại đơn khởi kiện đề ngày 24/4/2020 và lời khai trong thời gian chuẩn bị xét xử vụ án, nguyên đơn bà Nguyễn Ngọc Ánh T trình bày:
Về hôn nhân: Bà và ông Trần Văn Đ tự nguyện đăng ký kết và được Ủy ban nhân dân xã P T, huyện T P, tỉnh Đồng Nai cấp giấy chứng nhận kết hôn ngày 17/8/2009. Sau khi kết hôn, vợ chồng sống không hạnh phúc, thường xảy ra mâu thuẫn, cãi vã với nhau. Nguyên nhân là do ông Đ tham gia đánh bạc, bỏ bê công việc, không quan tâm đến gia đình và còn đánh đập bà. Từ cuối năm 2018, vợ chồng sống ly thân cho đến nay. Năm 2018, bà đã nộp đơn yêu cầu Tòa án giải quyết xin ly hôn với ông Đ nhưng bà đã rút đơn khởi kiện để cho các con có cả cha và mẹ. Tuy nhiên, vợ chồng vẫn không sống chung với nhau và bản thân ông Đ không sửa đổi bản thân. Nay bà yêu cầu Tòa án giải quyết cho bà được ly hôn với ông Trần Văn Đ.
Về con và cấp dưỡng nuôi con: Bà và ông Đ có 02 con chung là Trần Ngọc Thiên Â, sinh ngày 03/02/2013 và Trần Ngọc Hồng Â, sinh ngày 24/3/2015. Khi ly hôn, bà yêu cầu được trực tiếp nuôi 02 con và không yêu cầu ông Đ cấp dưỡng nuôi con.
Về tài sản chung: Vợ chồng tự thỏa thuận nên bà không yêu cầu Tòa án giải quyết.
Về nợ chung: Vợ chồng không nợ chung ai nên bà không yêu cầu Tòa án giải quyết.
Trong thời gian chuẩn bị xét xử vụ án, Tòa án đã tống đạt hợp lệ các văn bản tố tụng đến bị đơn nhưng bị đơn không đến Tòa án để làm việc, không giao nộp tài liệu, chứng cứ để trình bày ý kiến của mình và cũng không tham gia phiên hòa giải. Vì vậy, Tòa án không thể hòa giải vụ án theo quy định tại Điều 54 của Luật hôn nhân và gia đình và quy định của pháp luật Tố tụng dân sự.
Tòa án lập Biên bản xác minh về tình trạng hôn nhân của các đương sự tại địa phương và thông báo kết quả thu thập được tài liệu, chứng cứ gửi đến các đương sự. Tòa án đã mở phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải: Nguyên đơn không có ý kiến về các tài liệu, chứng cứ đã cung cấp, cũng như các tài liệu, chứng cứ mà Tòa án đã thu thập được và không bổ sung tài liệu, chứng cứ nào khác; bị đơn vắng mặt, Tòa án đã Thông báo kết quả về phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và tống đạt theo đúng quy định của pháp luật.
Tại phiên tòa, Kiểm sát viên phát biểu ý kiến như sau:
- Về việc tuân theo pháp luật: Trong quá trình thụ lý giải quyết vụ án Thẩm phán đã thực hiện đúng các quy định của pháp luật. Tại phiên tòa, Hội đồng xét xử tuân thủ đúng trình tự tố tụng theo quy định đối với một phiên tòa sơ thẩm.
- Về quan điểm giải quyết vụ án:
Đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ: Các Điều 91, 92, 93 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000; các Điều 56, 81, 82, 83, 84, 131 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014; Điều 28, 35, 39, 147 Bộ luật Tố tụng dân sự và Nghị quyết số 326/2016/NQ-UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội.
Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn: Cho bà Nguyễn Ngọc Ánh T được ly hôn với ông Trần Văn Đ; giao các cháu Trần Ngọc Thiên Â, sinh ngày 03/02/2013 và Trần Ngọc Hồng Â, sinh ngày 24/3/2015 cho bà T trực tiếp nuôi dưỡng; tạm thời, ông Đ không phải cấp dưỡng nuôi con chung; về tài sản chung, nợ chung: Tách ra giải quyết bằng vụ án khác khi có tranh chấp; về án phí: Nguyên đơn phải nộp 300.000đ (ba trăm nghìn đồng) án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Căn cứ vào tài liệu, chứng cứ đã được xem xét tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa.
[1] Về áp dụng pháp luật tố tụng:
[1.1] Bị đơn ông Trần Văn Đ có nơi cư trú tại ấp T L 1, xã P T, huyện T P, tỉnh Đồng Nai. Vì vậy, căn cứ theo điểm a, khoản 1 Điều 35 và điểm a, khoản 1 Điều 39 Bộ luật Tố tụng Dân sự xác định vụ án thuộc thẩm quyền thụ lý, giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Tân Phú, tỉnh Đồng Nai.
[1.2] Bà T yêu cầu Tòa án giải quyết ly hôn với ông Đ và yêu cầu được trực nuôi dưỡng con chung. Vì vậy, quan hệ pháp luật được xác định là “Ly hôn, tranh chấp về nuôi con” theo quy định tại khoản 1 Điều 28 Bộ luật Tố tụng Dân sự.
[1.3] Nguyên đơn có đơn đề nghị xét xử vắng mặt; bị đơn đã được Tòa án triệu tập hợp lệ đến lần thứ hai nhưng vẫn vắng mặt tại phiên tòa không vì sự kiện bất khả kháng hoặc trở ngại khách quan. Hội đồng xét xử căn cứ khoản 1 và điểm b khoản 2 Điều 227, Điều 228, 238 của Bộ luật Tố tụng dân sự quyết định xét xử vụ án vắng mặt các đương sự.
[2] Về áp dụng pháp luật nội dung: Xét yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn NHẬN THẤY
[2.1] Về hôn nhân: Bà T và ông Đ tự nguyện kết hôn và được Ủy ban nhân dân xã P T, huyện T P, tỉnh Đồng Nai cấp Giấy chứng nhận kết hôn số 76, ngày 17 tháng 8 năm 2009. Đây là hôn nhân hợp pháp được pháp luật bảo vệ, khi bà T yêu cầu ly hôn thì Tòa án căn cứ Luật hôn nhân và gia đình để giải quyết.
Trên cơ sở lời khai của đương sự và tài liệu, chứng cứ thu thập trong quá trình tiến hành tố tụng, thể hiện: Các đương sự sống không hạnh phúc, thường xảy ra mâu thuẫn, xô sát với nhau. Nguyên nhân là do ông Đ không lo làm ăn, tham gia đánh bạc, phá tán tài sản trong gia đình. Cuối năm 2018, bà T đã khởi kiện yêu cầu Tòa án giải quyết xin ly hôn với ông Đ nhưng đến tháng 4/2019, bà T đã rút yêu cầu khởi kiện để vợ chồng có cơ hội hòa giải tiếp tục chung sống với nhau, cho con có cả cha lẫn mẹ. Tuy nhiên, vợ chồng không thể hàn gắn và sống ly thân từ cuối năm 2018 cho đến nay. Bà T khởi kiện, ông Đ đã biết được việc Tòa án thụ lý vụ án, được tống đạt hợp lệ các văn bản tố tụng nhưng không đến Tòa án tham gia tố tụng, cho thấy ông Đ không mong muốn Tòa án hòa giải để vợ chồng đoàn tụ, tiếp tục chung sống với nhau và cũng không đưa ra ý kiến gì phản đối việc bà T yêu cầu ly hôn với mình.
Hội đồng xét xử có đủ cơ sở kết luận: Các đương sự đã vi phạm nghiêm trọng về nghĩa vụ thương yêu, tôn trọng, quan tâm, chăm sóc, giúp đỡ giữa vợ và chồng; vi phạm nghĩa vụ sống chung của vợ chồng được quy định tại Điều 19 của Luật hôn nhân và gia đình, làm hôn nhân lâm vào tình trạng trầm trọng, đời sống chung của vợ chồng không được liên tục, mục đích hôn nhân không đạt được. Vì vậy, chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn là phù hợp với quy định tại Điều 91 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 và khoản 1 Điều 56 của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014.
[2.2] Về con và cấp dưỡng nuôi con chưa thành niên: Các đương sự có 02 (hai) con chung là: Trần Ngọc Thiên Â, sinh ngày 03/02/2013 và Trần Ngọc Hồng Â, sinh ngày 24/3/2015. Khi ly hôn, bà T yêu cầu được trực tiếp nuôi 02 con và không yêu cầu ông Đ cấp dưỡng nuôi con. Xét thấy, nguyên đơn yêu cầu được trực tiếp nuôi con; bị đơn không gửi ý kiến, yêu cầu của mình và cũng không phản đối yêu cầu của nguyên đơn. Mặt khác, từ khi vợ chồng sống ly thân các con do bà T trực tiếp nuôi dưỡng và các con đều có nguyện vọng được sống cùng với bà T. Vì vậy, giao các con cho nguyên đơn trực tiếp nuôi dưỡng là phù hợp quy định của pháp luật. Nguyên đơn không yêu cầu bị đơn cấp dưỡng nuôi con nên Tòa án không giải quyết, khi nào có tranh chấp sẽ được giải quyết bằng vụ án khác.
[2.3] Về tài sản chung: Nguyên đơn không yêu cầu Tòa án giải quyết và Tòa án cũng không ghi nhận được ý kiến, yêu cầu của bị đơn về việc giải quyết tài sản chung khi nào có tranh chấp sẽ giải quyết bằng vụ án khác.
[2.4] Về nợ chung: Nguyên đơn khai không có và không yêu cầu Tòa án giải quyết. Tòa án cũng không ghi nhận được ý kiến, yêu cầu của bị đơn về việc giải quyết nợ chung nên khi nào có tranh chấp sẽ giải quyết bằng vụ án khác.
[3] Về án phí: Nguyên đơn phải chịu án phí dân sự sơ thẩm về yêu cầu ly hôn theo quy định của pháp luật.
[4] Đề nghị của Kiểm sát viên tại phiên tòa phù hợp với nhận định của Hội đồng xét xử nên được chấp nhận.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ:
- Khoản 1 Điều 28; điểm a khoản 1 Điều 35; điểm a khoản 1 Điều 39; Điều 144, 147; khoản 1 và điểm b khoản 2 Điều 227; Điều 235, 238, 273 của Bộ luật Tố tụng dân sự:
- Điều 39 của Bộ luật Dân sự năm 2015:
- Các Điều 51, 56, 81, 82, 83, 84 và 131 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014:
- Điều 85, 89, 91, 92, 93 của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000:
- Điểm a khoản 5 Điều 27 của Nghị quyết số: 326/2016/NQ-UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án.
Tuyên xử:
1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn bà Nguyễn Ngọc Ánh T.
1.1. Về hôn nhân: Bà Nguyễn Ngọc Ánh T được ly hôn với ông Trần Văn Đ.
1.2. Về con chung và cấp dưỡng nuôi con: Giao cháu Trần Ngọc Thiên Â, sinh ngày 03/02/2013 và Trần Ngọc Hồng Â, sinh ngày 24/3/2015 cho bà T trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng và giáo dục. Bà T không yêu cầu ông Đ cấp dưỡng nuôi con nên Tòa án không giải quyết.
Các đương sự có quyền qua lại thăm nom, chăm sóc con chung không ai được gây cản trở. Vì lợi ích của con chung các đương sự có quyền khởi kiện yêu cầu thay đổi việc nuôi con và cấp dưỡng nuôi con.
1.3. Về tài sản chung, nợ chung: Tách ra để giải quyết bằng vụ án khác khi các đương sự có tranh chấp.
2. Về án phí: Bà Nguyễn Ngọc Ánh T phải chịu 300.000đ (ba trăm nghìn đồng) tiền án phí dân sự sơ thẩm trong vụ án hôn nhân và gia đình về ly hôn. Số tiền tạm ứng án phí bà T đã nộp 300.000đ (ba trăm nghìn đồng) theo biên lai thu số 005996 ngày 05/5/2020 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Tân Phú, tỉnh Đồng Nai, được trừ vào án phí. Bà T đã nộp đủ.
Trường hợp Bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 của Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 của Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 của Luật thi hành án dân sự.
3. Về quyền kháng cáo: Bà T và ông Đ có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày, tính từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết theo quy định của luật.
Bản án 92/2020/HNGĐ-ST ngày 28/09/2020 về ly hôn, tranh chấp nuôi con
Số hiệu: | 92/2020/HNGĐ-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Tân Phú - Đồng Nai |
Lĩnh vực: | Hôn Nhân Gia Đình |
Ngày ban hành: | 28/09/2020 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về