Bản án 92/2020/HNGĐ-ST ngày 24/11/2020 về tranh chấp ly hôn, nuôi con chung

TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN NGŨ HÀNH SƠN, THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG

BẢN ÁN 92/2020/HNGĐ-ST NGÀY 24/11/2020 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN, NUÔI CON CHUNG

Ngày 24 tháng 11 năm 2020 tại trụ sở Tòa án nhân dân quận Ngũ Hành Sơn xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 62/2020/TLST-HNGĐ ngày 6 tháng 07 năm 2020 về việc "Ly hôn, nuôi con chung" theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số 15/2020/QĐST - HNGĐ ngày 16 tháng 10 năm 2020; Quyết định hoãn phiên tòa số 25 ngày 04 tháng 11 năm 2020 giữa các đương sự:

Nguyên đơn: Chị Hoàng Thị Tuyết Nh, sinh năm 1981; địa chỉ: Số 05 K, phường V, quận L, TP H. Có mặt.

Bị đơn: Anh Phạm Viết Th, sinh năm 1984; địa chỉ: Số 20 Nguyễn T, Tổ 39, phường H, quận Ngũ H, TP Đ. Vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

* Trong đơn khởi kiện gửi đến Toà án ngày 6/7/2020 và quá trình tố tụng tại Tòa án, nguyên đơn trình bày: Tôi Hoàng Thị Tuyết Nh và anh Phạm Viết Th kết hôn vào năm 2010. Hôn nhân trên cơ sở tự nguyện, có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân phường Hòa Hải, quận Ngũ Hành Sơn, thành phố Đà Nẵng. Vợ chồng sống hạnh phúc cho đến năm 2019 thì sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân do tính tình và quan điểm sống của chúng tôi không hợp nhau, mỗi người có quan điểm sống khác biệt nhau nên vợ chồng thường xuyên cãi vã nhau, gây ồn ào gia đình và dần lạnh nhạt tình cảm với nhau. Mâu thuẫn như vậy chúng tôi đã một lần gửi đơn đến tòa án xin ly hôn nhưng vì muốn níu kéo hạnh phúc đã rút đơn quay lại đoàn tụ nhưng mâu thuẫn ấy đến nay vẫn không thay đổi. Từ đầu năm 2020 tôi chuyển đi nơi khác sống, từ đây vợ chồng chấm dứt mọi quan hệ. Nay tôi xác định tình cảm không còn yêu thương anh Th nữa, nguyện vọng yêu cầu Tòa án giải quyết cho chị được ly hôn.

Về con chung: Có 01 con chung tên Phạm Hoàng Viết Ph, sinh ngày 13/9/2018; Ly hôn chị Nh có nguyện vọng được nuôi con, không yêu cầu anh Th cấp dưỡng nuôi con .

- Về quan hệ tài sản chung: Không có.

- Về nợ chung: Không có.

* Bị đơn anh Phạm Viết Th vắng mặt không có ý kiến tại hồ sơ.

* Tại phiên tòa hôm nay vị đại diện Viện kiểm sát phát biểu ý kiến về việc tuân theo pháp luật tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án gồm:

1. Việc tuân theo pháp luật của Thẩm phán, Thẩm tra viên, Hội đồng xét xử vụ án, Thư ký trong quá trình giải quyết vụ án, kể từ khi thụ lý cho đến trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị án:

* Việc tuân theo pháp luật trong thời gian chuẩn bị xét xử:

Qua kiểm sát việc giải quyết vụ án từ khi thụ lý vụ án đến thời điểm này thấy rằng Thẩm phán được phân công giải quyết vụ án đã chấp hành đúng quy định tại Điều 48 BLTTDS. Thẩm phán đã xác định đúng về thẩm quyền thụ lý vụ án, thời hiệu khởi kiện, quan hệ pháp luật tranh chấp, tư cách pháp lý và mối quan hệ giữa những người tham gia tố tụng theo quy định của BLTTDS.

- Việc thu thập chứng cứ: Về cơ bản việc thu thập chứng cứ đảm bảo theo đúng Điều 95 BLTTDS.

- Thẩm phán đã thực hiện đúng quy định của BLTTDS về việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải; Việc cấp, tống đạt các văn bản tố tụng cho VKS và người tham gia tố tụng theo đúng quy định tại Điều 170, 171, 177, 178, 203, 205, 210 BLTTDS.

- Về thời hạn chuẩn bị xét xử Tòa án thực hiện đảm bảo theo quy định tại Điều 203 BLTTDS.

* Việc tuân theo pháp luật của HĐXX, Thư ký tại phiên tòa:

Tại phiên Tòa hôm nay, Hội đồng xét xử đã thực hiện nguyên tắc xét xử, thủ tục phiên tòa sơ thẩm theo đúng quy định tại chương II, chương XIV BLTTDS. Thư ký được phân công đã thực hiện đúng theo quy định tại Điều 51 BLTTDS.

2. Việc tuân theo pháp luật tố tụng của người tham gia tố tụng dân sự trong quá trình giải quyết vụ án, kể từ khi thụ lý cho đến trước thời điểm HĐXX nghị án:

Từ khi thụ lý cho đến thời điểm này, nguyên đơn đã thực hiện đúng các quy định tại Điều 70, 71, 72 BLTTDS, bị đơn không chấp hành đúng.

Căn cứ vào Điều 56,58,81,82,83 Luật hôn nhân gia đình Việt Nam; căn cứ Điều 35, Điều 47; Điều 147 BLTTDS; khoản 2 Điều 227 Bộ luật Tố tụng dân sự; Căn cứ Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Uỷ ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án:

Đề nghị Hội đồng xét xử: Chấp nhận đơn khởi kiện xin ly hôn, nuôi con chung của chị Hoàng Thị Tuyết Nh đối với anh Phạm Viết Th - Về quan hệ hôn nhân: Chấp nhận yêu cầu ly hôn của Hoàng Thị Tuyết Nh được ly hôn anh Phạm Viết Th.

- Về con chung: Giao con chung tên Phạm Hoàng Viết Ph, sinh ngày 13/9/2018 cho chị Hoàng Thị Tuyết Nh trực tiếp nuôi dưỡng đến khi đủ 18 tuổi, anh Phạm Viết Th không phải cấp dưỡng nuôi con.

- Về quan hệ tài sản chung và nợ chung: Không có, không yêu cầu giải quyết nên không đề cập đến

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

 Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa và qua kết quả tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử Tòa án nhân dân quận Ngũ Hành Sơn, TP Đà Nẵng nhận định:

[1] Về thủ tục tố tụng: Về thẩm quyền giải quyết, tranh chấp ly hôn và nuôi con chung giữa anh, chị thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân quận Ngũ Hành Sơn, thành phố Đà Nẵng theo quy định tại khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35 và điểm a khoản 1 Điều 39 của Bộ luật tố tụng dân sự.

[2] Anh Phạm Viết Th (là bị đơn trong vụ án, không có yêu cầu phản tố) đã được Tòa án triệu tập hợp lệ lần thứ hai nhưng vẫn vắng mặt không có lý do nên căn cứ khoản 2 Điều 227; Điều 228 của Bộ luật tố tụng dân sự, HĐXX tiến hành xét xử vắng mặt.

[3] Về nội dung vụ án: Chị Hoàng Thị Tuyết Nh và anh Phạm Viết Th xây dựng gia đình với nhau vào năm 2010. Hôn nhân của trên cơ sở tự nguyện, có đăng ký kết hôn tại UBND phường Hòa Hải, quận Ngũ Hành Sơn, thành phố Đà Nẵng. Đây là cuộc hôn nhân hợp pháp nên được pháp luật công nhận và bảo vệ.

Vợ chồng chung sống hạnh phúc đến năm 2019 thì phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân do tính tình và quan điểm sống của chúng tôi không hợp nhau nên từ đó luôn xảy ra xích mích, cãi vã nhau và dần lạnh nhạt tình cảm với nhau. Mâu thuẫn như vậy kéo dài từ 2019 đến nay vẫn không thay đổi. Từ đầu năm 2020 chị Nhung chuyển đi nơi khác sống cũng từ đây vợ chồng chấm dứt mọi quan hệ. Nay chị Nhung xác định tình cảm không còn yêu thương anh Thịnh nữa nguyện vọng yêu cầu Tòa án giải quyết cho chị được ly hôn.

Bị đơn anh Phạm Viết Th vắng mặt nên không có ý kiến thể hiện tại phiên tòa.

[4] Xét yêu cầu xin ly hôn của chị Nh thì thấy: Hạnh phúc gia đình chỉ thực sự đạt được khi cả vợ chồng cùng có niềm tin và tình yêu, sự thông cảm và chia sẻ cùng nhau trong cuộc sống nhưng đến nay cả hai anh chị đã không còn giữ được điều này. Trước đây vợ chồng đã rút đơn trở về đoàn tụ tuy nhiên vẫn không cải thiện được tình cảm và hiện vợ chồng đã tự sống ly thân nhau càng tạo thêm rạn nứt tình cảm vợ chồng có níu kéo cũng không đem lại kết quả gì.

[5] Đối với anh Th tòa án đã triệu tập hợp lệ tham gia phiên tòa nhiều lần nhưng anh đều vắng mặt thể hiện ý thức không chấp hành pháp luật cũng như bỏ mặc việc níu kéo đối với chính cuộc hôn nhân của mình. Xét thấy mâu thuẫn của chị Y và anh H đã thật sự trầm trọng, cuộc sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được cần chấp nhận yêu cầu xin ly hôn của chị Nh đối với anh Thlà phù hợp với điều 51 Luật hôn nhân và gia đình.

[6] Về con chung: Chị Nhung và anh Th có 01 con chung là Phạm Hoàng Viết Ph, sinh ngày 13/9/2018; Ly hôn chị Nh có nguyện vọng được nuôi con, không yêu cầu anh Th cấp dưỡng nuôi.

Xét yêu cầu xin được nuôi con của chị Nh thì thấy hiện cháu Ph còn quá nhỏ và cháu hiện đang sống với mẹ ổn định không cần xáo trộn cuộc sống của cháu nên cần áp dụng Điều 81, 82, 83 Luật hôn nhân và gia đình tiếp tục giao con chung cho chị Nh nuôi dưỡng là phù hợp. Chị Nh không yêu cầu anh Th cấp dưỡng nuôi con nên HĐXX không xem xét.

[7] Về tài sản chung và nợ chung: Chị Nh xác định không có. Tuy nhiên anh Th vắng mặt tại phiên tòa nên không có ý kiến của anh thì không xác định được có hay không tài sản chung và nợ chung, để đảm bảo quyền lợi các đương sự HĐXX không đề cập đến, nếu sau này các bên đương sự có yêu cầu giải quyết về tài sản chung, nợ chung thì Tòa án sẽ thụ lý giải quyết bằng vụ án dân sự khác.

[8] Về án phí hôn nhân gia đình 300.000đ nguyên đơn phải chịu theo qui định pháp luật.

Vì các lẽ trên:

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35 và điểm a khoản 1 Điều 39; khoản 2 Điều 227 của Bộ luật tố tụng dân sự 2015; Điều 51, 56, 81, 82, 83 Luật Hôn nhân và gia đình:

Căn cứ Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Uỷ ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án:

Chấp nhận đơn yêu cầu khởi kiện về việc “Ly hôn, nuôi con chung” của chị Hoàng Thị Tuyết Nh đối với anh Phạm Viết Th.

Xử:

1.Về quan hệ hôn nhân: Cho chị Hoàng Thị Tuyết Nh được ly hôn anh Phạm Viết Th.

2. Về quan hệ con chung: Giao con chung Phạm Hoàng Viết Ph, sinh ngày 13/9/2018 cho chị Hoàng Thị Tuyết Nh trực tiếp nuôi dưỡng đến khi đủ 18 tuổi, anh Phạm Viết Th không phải cấp dưỡng Các bên vẫn được thực hiện mọi quyền và nghĩa vụ đối với con chung theo theo quy định của pháp luật. Khi cần thiết vì lợi ích chung của con các bên có quyền xin thay đổi người nuôi con hoặc yêu cầu thay đổi cấp dưỡng nuôi con.

3. Về tài sản chung và nợ chung: Không đề cập đến.

4. Án phí HNGĐ sơ thẩm: 300.000đ chị Hoàng Thị Tuyết Nh phải chịu khấu trừ vào số tiền tạm ứng án phí đã nộp tại Chi cục thi hành án dân sự quận Ngũ Hành Sơn, TP Đà Nẵng theo biên lai thu số 0009978 ngày 6 tháng 7 năm 2020 Án xử công khai sơ thẩm báo cho nguyên đơn biết có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án hôm nay. Riêng bị đơn vắng mặt có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc niêm yết trích sao kết quả phiên tòa.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế theo quy định tại các điều 6,7 và điều 9 Luật thi hành án dân sự, thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi Hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

150
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 92/2020/HNGĐ-ST ngày 24/11/2020 về tranh chấp ly hôn, nuôi con chung

Số hiệu:92/2020/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận Ngũ Hành Sơn - Đà Nẵng
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 24/11/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về