TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN 4 - THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
BẢN ÁN 92/2019/HS-ST NGÀY 27/11/2019 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY
Trong ngày 27 tháng 11 năm 2019, tại trụ sở Tòa án nhân dân Quận 4, Thành phố Hồ Chí Minh xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 110/2019/TLST-HS ngày 13 tháng 11 năm 2019, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 141/2019/QĐXXST-HS ngày 14 tháng 11 năm 2019 đối với bị cáo:
Lê Minh T; giới tính: Nam; sinh năm: 1997 tại Vĩnh Long; nơi đăng ký hộ khẩu thường trú: Ấp A, xã B, huyện C, tỉnh Tiền Giang; nơi cư trú: Không có nơi cư trú nhất định; nghề nghiệp: Bảo vệ; trình độ văn hóa: 9/12; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; con ông Lê Thanh N và bà Nguyễn Thị P; chưa có vợ, con; Tiền án, tiền sự: không. Bị bắt, tạm giam ngày 14/8/2019. (Bị cáo có mặt).
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Khoảng 23 giờ 00 phút ngày 13/8/2019, sau khi tan ca làm bảo vệ tại quán cà phê trên đường Phan Xích Long, quận Phú Nhuận, Lê Minh T điện thoại cho người đàn ông tên gọi “Ốm Ka” (không rõ lai lịch) qua số 0795989xxx hỏi mua 200.000 đồng ma túy đá về sử dụng, “Ốm Ka” đồng ý và hẹn qua Quận 4. T nhờ bạn làm chung tên Nguyễn Thanh H chở đi nhưng không nói cho H biết đi đâu. H mượn xe gắn máy Yamaha hiệu Sirus, biển số 63P1-195.xx của Nguyễn Hữu N1 (là bạn làm chung với H và T) chở T qua Quận 4. Khi đến ngã tư đường Hoàng Diệu và đường Khánh Hội, T nói H dừng xe đứng đợi. T đi bộ khoảng 500m gặp “Ốm Ka” đưa 200.000 đồng, sau đó “Ốm Ka” đưa cho T 01 gói nylon chứa tinh thể không màu, T cầm trong tay phải rồi ra xe rủ H đi ăn. Khoảng 00 giờ 15 phút ngày 14/8/2019, khi H chở T đến trước số U38 Nguyễn Hữu Hào, Phường 08, Quận 4 thì lực lượng tuần tra Công an Quận 4 yêu cầu H dừng xe kiểm tra thì T ngồi sau ném gói nylon chứa tinh thể không màu xuống đất, ngay lúc đó bị Công an phát hiện thu giữ tang vật và đưa T, H về trụ sở Công an Phường 08, Quận 4 lập biên bản bắt người phạm tội quả tang đối với Lê Minh T.
Theo Kết luận giám định số 1604/KLGĐ-H ngày 22/8/2019 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an Thành phố Hồ Chí Minh kết luận: Tinh thể không màu trong 01 gói nylon được niêm phong bên ngoài có chữ ký ghi tên Lê Minh T và hình dấu Công an Phường 08, Quận 4 là ma túy ở thể rắn, có khối lượng 0,2766 (không phẩy hai bảy sáu sáu) gam, loại Methamphetamine.
Quá trình điều tra, Lê Minh T khai nhận toàn bộ hành vi phạm tôi của mình như đã nêu trên.
Đối với Nguyễn Thanh H không liên quan đến hành vi phạm tội của Lê Minh T nhưng qua kiểm tra, H có sử dụng ma túy. Do H có quyết định áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc , nên Cơ quan Cảnh sát điều tra - Công an Quận 4 giao Hồ cho Công an huyện C, tỉnh Tiền Giang thi hành.
Đối với người đàn ông tên “Ốm Ka” bán ma túy cho T do không xác định được nhân thân, lai lịch nên Cơ quan Cảnh sát điều tra -Công an Quận 4 không có căn cứ để điều tra xử lý.
Vật chứng của vụ án: 01 gói niêm phong ghi vụ số 1604 là ma túy của T còn lại sau giám định; 01 điện thoại di động hiệu Iphone 6 màu xám đen đã qua sử dụng.
Tạm giữ của Nguyễn Thanh H: 01 xe Yamaha hiệu Sirus, biển số 63P1-195.xx, số máy: E3X9E-324851, số khung: RLCUE3210-HY138752. Qua xác minh, xe này là tài sản của ông Nguyễn Hữu N, không liên quan đến hành vi phạm tội của Lê Minh T. Công an Quận 4 đã ra quyết định xử lý vật chứng trả lại cho ông N; 01 điện thoại di động hiệu Samsung Galaxy S8, màu đen đã qua sử dụng. Công an Quận 4 đã ra quyết định xử lý vật chứng, trả lại cho ông H. Do ông H đang cai nghiện bắt buộc tại Cơ sở cai nghiện ma túy Tiền Giang, nên ông Nguyễn Ngọc F (là cha của H) nhận thay.
Tại Bản cáo trạng số 112/CT-VKS ngày 12/11/2019, Viện kiểm sát nhân dân Quận 4 truy tố bị cáo Lê Minh T về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017.
Tại phiên tòa, Bị cáo Lê Minh T có lời khai phù hợp với lời khai tại Cơ quan điều tra và các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án. Đồng thời, bản thân bị cáo đã nhận thức được hành vi của mình là sai trái, nên xin Tòa án giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân Quận 4 trình bày lời luận tội: Giữ nguyên quyết định truy tố bị cáo Lê Minh T về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017. Căn cứ vào nhân thân của bị cáo, tình tiết giảm nhẹ của bị cáo là thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải theo quy định điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017 , đề nghị xử phạt bị cáo từ 01 (một) năm đến (02) hai năm tù; Đề nghị phạt tiền bổ sung là 5.000.000 (năm triệu) đồng; Tịch thu, tiêu hủy 01 gói niêm phong ghi vụ số 1604 là ma túy của T còn lại sau giám định;
Tịch thu, sung quỹ 01 điện thoại di động hiệu Iphone 6 màu xám đen đã qua sử dụng.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an Quận 4, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân Quận 4, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự thủ tục the o quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các quyết định, hành vi tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đúng quy định pháp luật.
2 Tại Cơ quan điều tra c ng như tại phiên tòa, bị cáo Lê Minh T thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình như bản cáo trạng đã nêu. Qua lời khai của bị cáo, đối chiếu với các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án có đủ cơ sở để kết luận: Bị cáo Lê Minh T đã có hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy với tổng khối lượng là 0,2766 (không phẩy hai bảy sáu sáu) gam, loại Methamphetamine nh m mục đích sử dụng dần. Hành vi của bị cáo đã đủ yếu tố cấu thành tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, tội phạm và hình phạt được quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017. Cho nên, truy tố của Viện kiểm sát nhân dân Quận 4 là có căn cứ.
3 Hành vi của bị cáo là nghiêm trọng, gây nguy hiểm cho xã hội, xâm hại đến chính sách độc quyền quản lý Nhà nước về chất ma túy, xâm phạm đến trật tự an toàn xã hội. Đây là nguyên nhân làm phát sinh các loại tội phạm và tệ nạn khác, ảnh hưởng xấu đến nhiều mặt của đời sống xã hội. Bị cáo biết rõ hành vi của mình bị pháp luật nghiêm cấm, nhưng bị cáo v n cố ý thực hiện. Vì vậy, cần áp dụng hình phạt tương xứng để răn đe, giáo dục bị cáo c ng như phòng ngừa chung tội phạm cho xã hội. Tuy nhiên, tại cơ quan điều tra và tại phiên tòa bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, nên khi lượng hình cần áp dụng điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017 để giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho bị cáo. Ngoài ra, Hội đồng xét xử áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo theo quy định tại khoản 5 Điều 249 Bộ luật Hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017.
4 Về xử lý vật chứng:
- Đối với 01 gói niêm phong ghi vụ số 1604 bên trong chứa tang vật là ma túy thu giữ của Lê Minh T còn lại sau giám định, đây là chất ma túy độc hại, nên cần tịch thu, tiêu hủy;
- Đối với 01 điện thoại di động hiệu Iphone 6 màu xám, số Imei: 355789071945157 đã qua sử dụng, đây là điện thoại bị cáo sử dụng để liên lạc mua ma túy, nên cần tịch thu, sung quỹ Nhà nước.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
1. Tuyên bố bị cáo Lê Minh T phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.
- Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 249 và điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017:
Xử phạt: Lê Minh T 01 (một) năm tù. Thời hạn tù tính từ ngày 14/8/2019.
Tiếp tục giam bị cáo để bảo đảm thi hành án, thời hạn tạm giam là 45 (bốn mươi lăm) ngày kể từ ngày tuyên án.
- Căn cứ khoản 5 Điều 249 Bộ luật Hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017: Buộc bị cáo nộp phạt số tiền 5.000.000 (năm triệu) đồng để sung vào quỹ Nhà nước.
- Căn cứ Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 và Điều 47 Bộ luật Hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017:
Tịch thu, tiêu hủy 01 gói niêm phong ghi vụ số 1604 bên trong chứa tang vật là ma túy thu giữ của Lê Minh T còn lại sau giám định;
Tịch thu, sung quỹ Nhà nước 1 điện thoại di động hiệu Iphone 6 màu xám đen, đã qua sử dụng.
(Theo Biên bản giao nhận vật chứng ngày 14/11/2019 của Chi cục Thi hành án dân sự Quận 4, Thành phố Hồ Chí Minh).
- Căn cứ Điều 135 và Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015; Luật phí và Lệ Phí Tòa án: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm là 200.000 (hai trăm nghìn) đồng.
2. Về quyền kháng cáo: Bị cáo được quyền kháng cáo bản án sơ thẩm trong thời hạn 15 (mười lăm) ngày kể từ ngày tuyên án.
Trường hợp Bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.
Bản án 92/2019/HS-ST ngày 27/11/2019 về tàng trữ trái phép chất ma túy
Số hiệu: | 92/2019/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Quận 4 - Hồ Chí Minh |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 27/11/2019 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về