Bản án 917/2020/HS-PT ngày 30/11/2020 về tội mua bán trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ HÀ NỘI

BẢN ÁN 917/2020/HS-PT NGÀY 30/11/2020 VỀ TỘI MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 30 tháng 11 năm 2020 tại Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội xét xử phúc thẩm công khai vụ án hình sự phúc thẩm thụ lý số: 714/2020/TLPT-HS ngày 01 tháng 10 năm 2020 đối với bị cáo Lương Nhân L do có kháng cáo của Lương Nhân L đối với Bản án hình sự sơ thẩm số: 127/2020/HS-ST ngày 23/07/2020 của Tòa án nhân dân quận Hoàn Kiếm, thành phố Hà Nội.

- Bị cáo có kháng cáo: Lương Nhân L, sinh năm 1997, HKTT và cư trú: Đội 5 thôn Dâ, xã T, huyện B, tỉnh Hà Nam; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Trình độ văn hóa: 12/12; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Con ông: Lương Nhân K và bà Vũ Thị Vân A, chưa có vợ; Tiền án, tiền sự: Không Bị tạm giữ ngày 02/3/2020 đến ngày 10/3/2020, áp dụng biện pháp cấm đi khỏi nơi cư trú. (Có mặt tại phiên tòa).

Người bào chữa cho bị cáo: Ông Nguyễn Quang Anh, luật sự Công ty Luật TNHH Sao Việt, Đoàn Luật sư Thành phố Hà Nội, (Có mặt tại phiên tòa).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khong 18 giờ 30 phút ngày 01/3/2020, tại quán cafe – địa chỉ X, phường T, quận H, thành phố Hà Nội, tổ công tác Công an phường T, quận Hoàn Kiếm, Hà Nội trong khi làm nhiệm vụ phát hiện Lương Nhân L cầm trên tay 01 túi nilon màu trắng gặp Nguyễn Ngọc T đang ngồi tại đây có biểu hiện nghi vấn. Qua kiểm tra thu giữ trên tay L 01 túi nilon màu trắng bên trong có 01 hộp giấy màu trắng kích thước khoảng 12x08x03cm trên mặt có hình tai nghe, trong hộp giấy có một túi nilong kích thước khoảng 08x14cm, bên trong túi nilong này có một túi nilong khác kích thước khoảng 04x06cm chứa thảo mộc, L khai nhận thảo mộc trong túi nilong là ma tuý Cần sa đang mang đi bán cho T. Tổ công tác đã tiến hành lập biên bản tạm giữ, niêm phong tang vật và đưa 02 đối tượng về trụ sở Công an Phường Tràng Tiền để giải quyết. Ngoài ra tạm giữ của Lương Nhân L : 01 điện thoại di động iphone 11 màu đen đã qua sử dụng, không rõ chất lượng, số sim 0977771623 kiểm tra điện thoại di động trên có thể hiện tin nhắn liên lạc trao đổi mua bán ma tuý với T.

Tạm giữ của Nguyễn Ngọc T: 600.000đ; 01 điện thoại di động Masstel màu đen, số sim 0377332117, kiểm tra điện thoại di động trên có thể hiện tin nhắn liên lạc trao đổi mua bán ma tuý với L Tại bản giám định số 1809/KLGĐ-PC09 ngày 09/3/2020, của phòng kỹ thuật hình sự công an thành phố Hà Nội kết luận: thảo mộc bên trong 01 túi nilong là Cần sa, khối lượng 1,014 gam (BL61).

Tại cơ quan điều tra, Lương Nhân L khai nhận: Ngày 28/02/2020 thông qua mang xã hội telegram Lương Nhân L có quen một nam thanh niên tên tài khoản “HUY NGUYÊN”(tên thật là Nguyễn Ngọc T – sinh năm 2000, trú tại: Nguyên Xá 3, Minh Khai, Bắc Từ Liêm, Hà Nội), T có hỏi mua 01 gam ma tuý Cần sa với giá 450.000đ sẽ trả công 150.000đ, L đồng ý hẹn sẽ lấy ma tuý Cần sa bán cho T. Đến 17h ngày 01/3/2020, T gọi điện cho L từ số điện thoại 0377332117 nhắc đến việc mua ma tuý, L đồng ý. L liên hệ với người phụ nữ quen qua mạng xã hội không biết tên tuổi, địa chỉ để mua 01 gam ma tuý Cần sa với giá 450.000đ, người phụ nữ trên đồng ý hẹn giao ma tuý tại trước cửa nhà hát lớn Hà Nội. Khoảng 18 giờ 30 phút cùng ngày có 01 người đàn ông không quen biết gọi điện đến giao ma tuý cho L, L trả tiền rồi cầm túi ma tuý Cần sa trên đi đến quán café .........., phường T, quận Hoàn Kiếm, Hà Nội gặp T để giao ma tuý như đã thoả thuận. Đến 18 giờ 45 phút cùng ngày, L đến quán café AHA gặp T, khi L để túi ma tuý Cần sa trên bàn thì bị phát hiện, bắt giữ đưa về trụ sở Công an phường Tràng Tiền.

Đối với đối tượng bán ma tuý cho L, L khai không biết tên tuổi, địa chỉ, không rõ số điện thoại liên hệ, nên Cơ quan điều tra không xác minh làm rõ để xử lý.

Đối với Nguyễn Ngọc T, xác định có việc T hỏi mua ma tuý cho L nhưng chưa giao tiền cho L cũng như nhận ma tuý từ L. Vì vậy chưa đủ căn cứ cấu thành tội phạm nên Cơ quan điều tra không xử lý.

Bản án hình sự sơ thẩm số: 127/2020/HS-ST ngày 23 tháng 7 năm 2020 của Tòa án nhân dân quận Hoàn Kiếm, thành phố Hà Nội đã quyết định:

Pht: Lương Nhân L 28 tháng tù về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” theo Khoản 1 Điều 251, Điều 38 Bộ luật Hình sự năm 2015.

Ngoài ra bản án hình sự sơ thẩm còn quyết định về vật chứng, án phí và quyền kháng cáo.

Ngày 28/7/ 2020 bị cáo Lương Nhân L kháng cáo nội dung xem xét lại tội danh đối với bị cáo.

Tại phiên tòa: Bị cáo giữ nguyên yêu cầu kháng cáo đề nghị xem xét tội danh và hình phạt.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Hà Nội sau khi đánh giá tính chất mức độ hậu quả hành vi phạm tội, nhân thân và các tình tiết tăng nặng giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị cáo, Hội đồng xét xử phúc thẩm căn cứ điểm a khoản 1 Điều 355, Điều 356 Bộ luật tố tụng hình sự, không chấp nhận kháng cáo giữ nguyên bản án sơ thẩm.

Người bào chữa cho bị cáo có ý kiến: Bị cáo Lương Nhân L là người Đồng tính ( LGBT). Bị cáo có tội, bị cáo L có hành vi mua ma túy không có hành vi bán ma túy, giá ma túy 600.000đ là do T tự đưa ra và bị cáo L không trả lời. Đề nghị HĐXX hủy án sơ thẩm, điều tra xét xử lại về tội danh đối bị cáo L. Trong trường hợp HĐXX không chấp nhận đề nghị HĐXX xem xét về hoàn cảnh, nhân thân cho bị cáo được hưởng mức hình phạt nhẹ nhất.

Bị cáo L Nhất trí lời bào chữa của Luật sư không có bổ sung thêm.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hình thức: Đơn kháng cáo của bị cáo, đúng về mặt chủ thể kháng cáo và trong thời hạn của luật định nên được chấp nhận để xem xét theo trình tự phúc thẩm.

[2] Xét kháng cáo bị cáo, Hội đồng xét xử phúc thẩm nhận thấy:

Về nội dung: Căn cứ các lời khai của bị cáo Lương Nhân L trong quá trình điều tra (từ bút lục số 86 đến 88, bút lục số 111, tại phiên Tòa sơ thẩm thể hiện tại biên bản phiên tòa bút lục số 228 đến 231 nhận hành vi phạm tội: Ngày 01/3/2020 mua gói cần sa của một người phụ nữ không quen biết trên mạng xã hội với giá 450.000 đồng để bán 600.000đồng.

Tại phiên tòa phúc thẩm bị cáo L khai cho rằng bị cáo mua ma túy và cho T chứ không bán, bị cáo thích T nên mang ma túy cho T để cùng sử dụng chung. T có nhắn nội dung số tiền trả cho bị cáo là 600.000 đồng nhưng bị cáo không nhắn tin trả lời.

Căn cứ biên bản kiểm tra điện thoại di động ngày 01/3/2020 (BL 65) thể hiện nội dung tin nhắn giữa bị cáo và Nguyễn Ngọc T về việc mua và giao nhận ma túy. Bị cáo đồng ý mua ma túy loại 450.000 đồng theo yêu cầu của T. Khi T nhắn tin cho bị cáo là đưa 600.000 đồng cho bị cáo cho tròn tiền, mặc dù bị cáo không nhắn tin trả lời lại nhưng bị cáo cũng không có tin nhắn thể hiện là không lấy số tiền 600.000 đồng do T trả. Mà thực tế, bị cáo vẫn đến điểm hẹn với T để giao ma túy ngay sau khi nhận được tin nhắn của T về số tiền, về địa điểm hẹn gặp. Mặt khác, tại phiên tòa sơ thẩm phúc thẩm bị cáo đều khai vì thích T nên mang ma túy cần sa đến cho T để sử dụng chung, để cùng quan hệ đồng tính, thỏa mãn nhu cầu tình dục. Việc tại phiên tòa bị cáo thay đổi lời khai không bán mà mua để cùng sử dụng chung là không có căn cứ.

Lời khai bị cáo L trình bày phù hợp lời khai Nguyễn Ngọc T, người làm chứng Lê Hoàng Hải (bút lục số 121) phù hợp với các tài liệu, chứng cứ thu thập được trong quá trình điều tra vụ án, như Kết luận điều tra, Cáo trạng, Bản án sơ thẩm do vậy có đủ cơ sở kết luận:

Khong 18 giờ 30 phút ngày 01/3/2020, Lương Nhân L đã có hành vi mang 1,014 gam ma túy cần sa nhằm bán trái phép cho Nguyễn Ngọc T thì bị bắt quả tang cùng tang vật tại quán cafe Aha – địa chỉ số 23 phố Tông Đản, phường Tràng Tiền, quận Hoàn Kiếm, thành phố Hà Nội.

nh vi phạm tội của bị cáo Lương Nhân L như đã phân tích trên đã đủ yếu tố cấu thành tội Mua bán trái phép chất ma túy” theo Khoản 1 Điều 251 Bộ luật hình sự 2015. Tòa án cấp sơ thẩm đã xét xử bị cáo về tội Mua bán trái phép chất ma túy” theo Khoản 1 Điều 251 Bộ luật hình sự 2015 là có căn cứ đúng pháp luật.

nh vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội. Tội phạm trực tiếp xâm hại đến trật tự công cộng, xâm phạm đến đạo đức xã hội, nếp sống văn minh xã hội chủ nghĩa, sức khoẻ con người và là nguyên nhân làm lây truyền các loại vi rút gây bệnh truyền nhiễm đặc biệt là bệnh HIV/AIDS.

Bị cáo nhận thức hành vi phạm tội của mình là nguy hiểm cho xã hội nhưng do coi thường pháp luật nên bị cáo vẫn cố ý phạm tội.

Tòa án cấp sơ thẩm đã đánh giá đúng tính chất, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo, bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự, không được áp dụng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự. Tại cấp phúc thẩm bị cáo khai báo toàn bộ hành vi phạm tội nhưng cho rằng đó không phải là phạm tội “ Mua bán trái phép chất ma túy” do nhận thức của bị cáo, áp dụng tình tiết giảm nhẹ thành khẩn khai báo theo quy định tại Điểm s Khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015 giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo.

Vì vậy Hội đồng xét xử phúc thẩm căn cứ điểm b khoản 1 Điều 355, điểm c khoản 1 Điều 357 Bộ luật Tố tụng hình sự, chấp nhận 1 phần kháng cáo của bị cáo Lương Nhân L, sửa Bản án hình sự sơ thẩm số: 127/2020/HS-ST ngày 23 tháng 7 năm 2020 của Tòa án nhân dân quận Hoàn Kiếm, thành phố Hà Nội về phần hình phạt.

[4] Về án phí hình sự phúc thẩm: Kháng cáo của bị cáo Lương Nhân L được chấp nhận một phần nên bị cáo không phải chịu án phí hình sự phúc thẩm.

[5] Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết hạn kháng cáo kháng nghị.

Vì các lẽ trên:

QUYẾT ĐỊNH

1.Căn cứ: Điểm b khoản 1 Điều 355, điểm c khoản 1 Điều 357 Bộ luật Tố tụng hình sự.

Chấp nhận một phần kháng cáo của bị cáo Lương Nhân L.

Sửa Bản án hình sự sơ thẩm số: 127/2020/HS-ST ngày 23 tháng 7 năm 2020 của Tòa án nhân dân quận Hoàn Kiếm, Thành phố Hà Nội về phần hình phạt.

n cứ: Áp dụng Khoản 1 Điều 251, Điểm s Khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015.

Tuyên bố bị cáo Lương Nhân L phạm tội “ Mua bán trái phép chất ma túy”.

Phạt: Bị cáo Lương Nhân L 24 tháng tù được trừ đi thời hạn tạm giữ (ngày 02/3/2020 đến ngày 10/3/2020). Thời hạn tù tính từ ngày bắt bị cáo để thi hành án.

2. Án phí hình sự phúc thẩm: Căn cứ khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự và điểm a khoản 2 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 về án phí, lệ phí Tòa án:

Bị cáo không phải nộp án phí hình sự phúc thẩm.

Các quyết định khác của Bản án hình sự sơ thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

147
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 917/2020/HS-PT ngày 30/11/2020 về tội mua bán trái phép chất ma túy

Số hiệu:917/2020/HS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Hà Nội
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 30/11/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về