Bản án 91/2021/HNGĐ-ST ngày 21/06/2021 về tranh chấp ly hôn

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ NHA TRANG, TỈNH KHÁNH HÒA 

BẢN ÁN 91/2021/HNGĐ-ST NGÀY 21/06/2021 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN

Ngày 21 tháng 6 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân Thành phố Nha Trang, tỉnh Khánh Hòa xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 1638/2020/TLST- HNGĐ ngày 30 tháng 12 năm 2020 về tranh chấp “ly hôn” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 79/2021/QĐXXST-HNGĐ ngày 14/6/2021, giữa các đương sự:

Nguyên đơn: Trần Thị Trà M Hộ khẩu thường trú: Ấp 1, xã H, huyện X, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu.

Chỗ ở hiện nay: 333 T, phường X, thành phố Vũng Tàu, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu. Vắng mặt.

Bị đơn Ông Tôn Văn H Địa chỉ: Thôn Ph, xã Phước Đ, thành phố Nha Trang, tỉnh Khánh Hòa. Vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

- Nguyên đơn bà Trần Thị Trà M trình bày:

Về quan hệ hôn nhân: Bà Trần Thị Trà M và ông Tôn Văn H tự nguyện kết hôn, có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã H, huyện X, tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu và được cấp Giấy chứng nhận kết hôn vào năm 2015.

Trong thời gian chung sống với nhau, thời gian đầu vợ chồng chung sống hạnh phúc. Từ năm 2016, giữa bà M và ông H bắt đầu nảy sinh mâu thuẫn do ông H không quan tâm đến gia đình, thường xuyên đánh đập, lăng mạ, xúc phạm bà M. Bà M đã cố gắng chịu đựng và cho ông H cơ hội thay đổi nhưng không có kết quả nên vợ chồng sống ly thân. Hiện ông H đang thi hành án tại trại giam A2-Bộ công an vì đã phạm tội “Cố ý gây thương tích”. Đến nay tình cảm vợ chồng không còn nên bà M yêu cầu Tòa giải quyết cho ông được ly hôn ông H.

Về con chung: Bà M và ông H có 01 con chung là Tôn Trần Cát T sinh ngày 14/6/2014. Ly hôn, bà M có nguyện vọng trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng con chung; không yêu cầu ông H phải cấp dưỡng nuôi con.

Về tài sản chung, nợ chung: Không có nên không yêu cầu Tòa án giải quyết.

- Bị đơn – ông Tôn Văn H hiện đang chấp hành án tại trại giam A2, huyện Diên Khánh, tỉnh Khánh Hòa. Theo biên bản lấy lời khai ngày 29/01/2021 của Tòa án nhân dân thành phố Nha Trang, ông Tôn Văn H trình bày: Việc kết hôn, thời gian kết hôn, tình trạng hôn nhân của ông và bà Trần Thị Trà M đúng như những gì bà M đã khai. Nay bà M ly hôn ông cũng đồng ý.

Con chung: Ông và bà M có 01 con chung là Tôn Trần Cát T sinh ngày 14/6/2014. Ly hôn, ông H đồng ý giao cho bà M trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng con chung; tạm thời ông không cấp dưỡng nuôi con.

Về tài sản chung, nợ chung: Không có nên không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Nha Trang đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ các Điều 51, 53, 56, 57, 58, 81, 82, 83 và 84 luật Hôn nhân và gia đình, chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn, bà Trần Thị Trà M được ly hôn với ông Tôn Văn H; Giao con chung Tôn Trần Cát T sinh ngày 14/6/2014 cho bà Trần Thị Trà M trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục; Không xem xét việc cấp dưỡng nuôi con; Tài sản chung và nợ chung: Không xem xét giải quyết; Án phí giải quyết theo quy định.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1]. Về thủ tục tố tụng: Bà Trần Thị Trà M và ông Tôn Văn H đều có yêu cầu xét xử vắng mặt ông bà; Căn cứ Điều 228 Bộ luật tố tụng dân sự, Tòa án tiến hành xét xử vắng mặt bà M, ông H.

[2]. Về quan hệ hôn nhân: Bà Trần Thị Trà M và ông Tôn Văn H tự nguyện đăng ký kết hôn, đã được Ủy ban nhân dân xã H, huyện X, tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu cấp Giấy chứng nhận kết hôn số 57 ngày 27/5/2015, đây là hôn nhân hợp pháp.

Bà M xác định, trong quá trình chung sống với nhau, ông H nhiều lần đánh đập, xúc phạm bà M, không quan tâm đến vợ con, gia đình. Bà M đã cố gắng chịu đựng và nhiều lần cho ông H cơ hội để sửa đổi nhưng ông H vẫn chứng nào tật nấy nên vợ chồng sống ly thân. Hiện ông H đang thi hành án tại trại giam A2 vì phạm tội “Cố ý gây thương tích”. Bà M không còn tình cảm với ông H. Ông H cũng xác định quá trình chung sống, vợ chồng có mâu thuẫn, bản thân ông đang chấp hành án nên tình cảm vợ chồng xa cách. Do đó, ông H cũng đồng ý ly hôn với bà M. Như vậy, Hội đồng xét xử có cơ sở để xác định, tình trạng hôn nhân giữa bà M và ông H đã trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được, yêu cầu ly hôn của bà M là có căn cứ, phù hợp với quy định của pháp luật nên chấp nhận để bà M được ly hôn ông H.

[3]. Về con chung: Bà Trần Thị Trà M và ông Tôn Văn H có 01 con chung là Tôn Trần Cát T sinh ngày 14/6/2014. Bà M có nguyện vọng được trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con chung và không yêu cầu ông H cấp dưỡng nuôi con, ông H đồng ý. Do đó, Hội đồng xét xử giao con chung Tôn Trần Cát T cho bà M trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục đến tuổi trưởng thành. Ông H tạm thời không cấp dưỡng nuôi con do bà M không yêu cầu.

[4]. Tài sản chung và nợ chung: Bà Trần Thị Trà M, ông Tôn Văn H xác định vợ chồng không có tài sản chung và nợ chung nên Hội đồng xét xử không xem xét, giải quyết.

[5]. Về án phí: Bà Trần Thị Trà M phải chịu án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

- Căn cứ khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39, khoản 1 Điều 227, Điều 271, khoản 1 Điều 273 và khoản 1 Điều 280 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015;

- Căn cứ khoản 1 Điều 51, khoản 1 Điều 53, khoản 1 Điều 56, các Điều 57, 58, 81, 82, 83, 84 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014;

Căn cứ Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí tòa án;

Tuyên xử: Chấp nhận yêu cầu của nguyên đơn;

1. Về quan hệ hôn nhân: Bà Trần Thị Trà M được ly hôn ông Tôn Văn H.

2. Về con chung: Giao con chung Tôn Trần Cát T sinh ngày 14/6/2014 cho bà Trần Thị Trà M trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục đến tuổi trưởng thành. Ông Tôn Văn H tạm thời không phải cấp dưỡng nuôi con.

Người không trực tiếp nuôi con có quyền thăm nom con, không ai được cản trở người đó thực hiện quyền này.

Vì lợi ích của con, theo yêu cầu của một hoặc cả hai bên, Tòa án có thể quyết định thay đổi người trực tiếp nuôi con cũng như việc cấp dưỡng nuôi con chung.

3. Tài sản chung và nợ chung: Không xem xét, giải quyết.

4. Về án phí: Bà Trần Thị Trà M phải chịu 300.000đ án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm nhưng được trừ vào 300.000đ tiền tạm ứng án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm đã nộp theo Biên lai thu tiền tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số AA/2017/0000231 ngày 30 tháng 12 năm 2020 của Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Nha Trang, bà M đã nộp đủ án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm.

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Quyền kháng cáo: Đương sự có mặt tại phiên tòa được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Đương sự vắng mặt tại phiên tòa được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày bản án được tống đạt hợp lệ.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

214
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 91/2021/HNGĐ-ST ngày 21/06/2021 về tranh chấp ly hôn

Số hiệu:91/2021/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Nha Trang - Khánh Hoà
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành:21/06/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về