Bản án 91/2020/DS-ST ngày 28/09/2020 về tranh chấp hợp đồng dân sự hụi

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN LẤP VÒ, TỈNH ĐỒNG THÁP

BẢN ÁN 91/2020/DS-ST NGÀY 28/09/2020 VỀ TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG DÂN SỰ HỤI

Trong ngày 28/9/2020 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Lấp Vò xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 290/2020/TLST-DS ngày 15 tháng 6 năm 2020 về “Tranh chấp về Hợp đồng dân sự hụi” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 105A/2020/QĐXXST-DS, ngày 23/8/2020 và quyết định hoãn phiên tòa số: 121/2020/QĐST-HPT ngày 10/9/2020 giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Chị Trần Thị P, sinh năm 1971; địa chỉ: Số 108B, ấp An L A, xã Định Y, huyện Lấp V, tỉnh Đồng T.

Người đại diện hợp pháp cho chị P: Chị Đặng Thị Minh C, sinh năm 1986; địa chỉ: Số 134, khóm Bình Thạnh 1, thị trấn Lấp V, huyện Lấp V, tỉnh Đồng T là người đại diện theo ủy quyền của chị P (Văn bản ủy quyền ngày 28/4/2020), “Có mặt”.

2. Bị đơn: Anh Phạm Hùng D, sinh năm 1975 và chị Nguyễn Thị Mỹ L, sinh năm 1980; cùng địa chỉ: Số 288, ấp An LA, xã Định Y, huyện Lấp V, tỉnh Đồng T, “Vắng mặt”.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Trong đơn khởi kiện, biên bản hòa giải và tại phiên toà chị Châu là người đại diện hợp pháp của nguyên đơn trình bày:

Chị P làm chủ hụi anh D và chị L có tham gia chơi hụi cụ thể như sau:

- Dây hụi 2.000.000 đồng khui ngày 25/02/2018 âm lịch và mãn ngày 25/12/2019 âm lịch. Mỗi tháng khui 01 lần có 22 hụi viên, anh D và chị L tham gia 01 phần tên trong giấy hụi là (Vợ D), số thứ tự là 16, khui đến lần thứ 3 thì anh D và chị L hốt hụi. Sau khi hốt hụi, anh D, chị L đóng được 2 lần hụi chết, đến khi hụi mãn còn 17 lần hụi chết anh D và chị L chưa đóng hụi với số tiền là 34.000.000 đồng.

- Dây hụi 2.000.000 đồng khui ngày 10/10/2018 âm lịch và mãn ngày 10/8/2019 âm lịch. Mỗi tháng khui 01 lần có 20 hụi viên, anh D và chị L tham gia 01 phần tên trong giấy hụi là (D), số thứ tự là 02, khui đến lần thứ 5 thì anh D và chị L hốt hụi. Sau khi hốt hụi, anh D, chị L đóng được 2 lần hụi chết, đến khi hụi mãn còn 13 lần hụi chết anh D và chị L chưa đóng hụi với số tiền là 26.000.000 đồng. Sau đó chị P nhiều lần yêu cầu đóng hụi thì anh D và chị L có trả cho chị P 6.000.000 đồng của 02 dây hụi rồi ngưng đến nay.

Nay chị Trần Thị P yêu cầu Tòa án nhân dân huyện Lấp Vò buộc chị Nguyễn Thị Mỹ L và anh Phạm Hùng D liên đới trả tiền nợ hụi là 54.000.000 đồng (Năm mươi bốn triệu đồng).

- Tại phiên tòa Kiểm sát viên phát biểu:

+ Từ khi thụ lý vụ án đến khi đưa vụ án ra xét xử Thẩm phán chấp hành đúng quy định của pháp luật.

+ Việc chấp hành pháp luật của những người tham gia tố tụng: Người tham gia tố tụng đã thực hiện đầy đủ quyền và nghĩa vụ tố tụng theo quy định pháp luật.

+ Tại phiên tòa Hội đồng xét xử và thư ký đã tuân thủ theo đúng các quy định của Bộ luật tố tụng dân sự về việc xét xử sơ thẩm vụ án.

+ Về quan điểm giải quyết vụ án: Đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận toàn bộ yêu cầu của nguyên đơn.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án, đã được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về tố tụng: Anh D và chị L là bị đơn đang sinh sống tại huyện Lấp Vò nên thuộc thẩm quyền giải quyết của Toà án nhân dân huyện Lấp Vò, theo quy định tại Điều 26, 35, 39 của Bộ luật tố tụng dân sự.

Anh D và chị L được Tòa án triệu tập hợp lệ đến phiên tòa xét xử lần 2 nhưng vắng mặt không lý do, do đó, Tòa án tiến hành xét xử vắng mặt anh D và chị L theo quy định tại khoản 2 Điều 227 của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015.

[2] Về nội dung:

Việc anh D, chị L tham gia hụi do chị P làm chủ, có 02 giấy hụi chứng minh. Các dây hụi anh D, chị L đã hốt xong, nhưng không đóng hụi chết cho chị P đầy đủ.

Việc này có các hụi viên làm chứng xác nhận lời trình bày và yêu cầu của chị P là đúng sự thật. Sau khi hốt hụi, anh D và chị L còn nợ chị P hụi chết 54.000.000 đồng, chị P đã đóng thay và duy trì hụi cho đến khi mãn.

Anh D, chị L biết còn nợ hụi chết của chị P nhưng không ý kiến gì, do đó, mọi hậu quả pháp lý anh D, chị L phải chịu theo quy định của pháp luật.

Tại Điều 471 của Bộ luật dân sự năm 2015 quy định về: Họ, hụi, biêu, phường:

“1. Họ, hụi, biêu, phường (sau đây gọi chung là họ) là hình thức giao dịch về tài sản theo tập quán trên cơ sở thỏa thuận của một nhóm người tập hợp nhau lại cùng định ra số người, thời gian, số tiền hoặc tài sản khác, thể thức góp, lĩnh họ và quyền, nghĩa vụ của các thành viên.

2. Việc tổ chức họ nhằm mục đích tương trợ trong nhân dân được thực hiện theo quy định của pháp luật.

3. Trường hợp việc tổ chức họ có lãi thì mức lãi suất phải tuân theo quy định của Bộ luật này.

4. Nghiêm cấm việc tổ chức họ dưới hình thức cho vay nặng lãi.” Từ phân tích và điều luật trên, xét thấy chị P yêu cầu chị L, anh D trả số tiền nợ hụi là 54.000.000 đồng là có căn cứ.

Chị P không yêu cầu lãi nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[3] Về án phí: Chị L, anh D bị buộc thực hiện nghĩa vụ dân sự nên phải chịu án phí sơ thẩm dân sự theo quy định.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào các Điều 26, 35, 39, 227 của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015; Điều 357, 471, 468 của Bộ luật dân sự năm 2015; Nghị định số: 19/2019/NĐ-CP ngày 19/02/2019 quy định về họ, hụi, biêu, phường; Điều 26 của Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Uỷ ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Tuyên xử:

1. Chấp nhận toàn bộ yêu cầu của chị Trần Thị P.

Buộc chị Nguyễn Thị Mỹ L và anh Phạm Hùng D cùng có nghĩa vụ liên đới trả cho chị Trần Thị P số tiền nợ hụi là 54.000.000 đồng (Năm mươi bốn triệu đồng) là chấm dứt nợ của 02 dây hụi khui ngày 25/02/2018 âm lịch và 10/10/2018 âm lịch.

Kể từ ngày bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật (đối với các trường hợp cơ quan thi hành có quyền chủ động ra quyết định thi hành án) hoặc kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án (đối với các khoản tiền phải trả cho người được thi hành án) cho đến khi thi hành án xong, bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất quy định tại Điều 357, Điều 468 của Bộ luật Dân sự năm 2015, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác.

2. Về án phí:

Buộc chị Nguyễn Thị Mỹ L và anh Phạm Hùng D cùng có nghĩa vụ liên đới nộp án phí dân sự sơ thẩm là 2.700.000 đồng (Hai triệu bảy trăm nghìn đồng).

Chị Trần Thị P được nhận lại số tiền tạm ứng án phí đã nộp là 1.550.000 đồng (Một triệu năm trăm năm mươi nghìn đồng) theo biên lai thu số BI/2019/0005760 ngày 12/6/2020 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Lấp Vò.

3. Án xử công khai, đương sự có mặt được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án, đương sự vắng mặt thời hạn kháng cáo là 15 ngày kể từ ngày nhận hoặc niêm yết bản án.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a và 9 Luật thi hành án dân sự, thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

297
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 91/2020/DS-ST ngày 28/09/2020 về tranh chấp hợp đồng dân sự hụi

Số hiệu:91/2020/DS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Lấp Vò - Đồng Tháp
Lĩnh vực:Dân sự
Ngày ban hành:28/09/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về