Bản án 91/2019/HS-ST ngày 29/11/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN CHỢ GẠO, TỈNH TIỀN GIANG

BẢN ÁN 91/2019/HS-ST NGÀY 29/11/2019 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 29 tháng 11 năm 2019 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Chợ Gạo, tỉnh Tiền Giang xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 73/2019/TLST-HS ngày 31 tháng 10 năm 2019 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 75/2019/QĐXXST-HS ngày 04 tháng 11 năm 2019 đối với các bị cáo:

1. Trịnh Minh N, sinh ngày 17-5-1997 tại Tiền Giang; CMND: 312329444 Nơi cư trú: Ấp Điền Th, xã Long B, huyện G, tỉnh Tiền Giang; Nghề nghiệp: Không; Trình độ văn hoá: 9/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông Trịnh Văn Tr sinh năm 1960, con bà Phạm Thị Th sinh năm 1963; Bị cáo chưa có vợ, con; Tiền án: Không, Tiền sự: Không. Bị cáo bị tạm giữ ngày 11-8-2019, tạm giam từ ngày 14-8-2019 cho đến nay; Bị cáo có mặt tại phiên tòa.

2. Lê Võ Thiên T, sinh ngày 09-6-1997 tại Tiền Giang; CMND: 312304539 Nơi cư trú: Ấp Phú Q, xã Vĩnh H, huyện T, tỉnh Tiền Giang; Nghề nghiệp: Làm thuê; Trình độ văn hoá: 9/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông Lê Phát H sinh năm 1969, con bà Võ Thị Kim L sinh năm 1973; Bị cáo chưa có vợ, con; Tiền án: Không, Tiền sự: Không. Bị cáo bị tạm giữ ngày 11-8-2019, tạm giam từ ngày 14-8-2019 cho đến nay; Bị cáo có mặt tại phiên tòa.

3. Lê Thanh Tr, sinh ngày 10-10-1997 tại Tiền Giang; CMND: 312329684 Nơi cư trú: Ấp Hòa Th, xã Hòa Đ, huyện G, tỉnh Tiền Giang; Nghề nghiệp: Không; Trình độ văn hoá: 9/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông Lê Văn C sinh năm 1966 (chết), con bà Võ Thị Bé H sinh năm 1969; Bị cáo chưa có vợ, con; Tiền án: Không, Tiền sự: Không. Bị cáo bị tạm giữ ngày 11-8-2019, tạm giam từ ngày 14-8-2019 cho đến nay; Bị cáo có mặt tại phiên tòa.

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

1. Võ Thị Kim L, sinh năm 1973;(có mặt) Nơi cư trú: Ấp Bình Hòa L, xã Bình Nh, huyện T, tỉnh Tiền Giang.

2. Lê Hồng Tr, sinh năm 1991;(có mặt) Nơi cư trú: Ấp Hòa Th, xã Hòa Đ, huyện G, tỉnh Tiền Giang.

- Người làm chứng:Nguyễn Thị Ng, sinh năm 1988; Nơi cư trú: Ấp Thạnh Th, xã An T, huyện G, tỉnh Tiền Giang;

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào khoảng 15 giờ 50 phút ngày 11-8-2019, tại phòng trọ số 01 nhà nghỉ Phương Nh tọa lạc tại ấp Mỹ Th, xã Hòa Đ, huyện G, tỉnh Tiền Giang lực lượng Cảnh sát Điều tra tội phạm về kinh tế và ma túy - Công an huyện Chợ Gạo tiến hành kiểm tra, bắt quả tang Trịnh Minh Nh, Lê Võ Thiên T, Lê Thanh Tr đang cất giấu 01 gói nylon màu trắng, bên trong có chứa tinh thể trong suốt (nghi là ma túy). Theo lời tình bày của Nh, T, Tr thì tinh thể trong suốt trong gói nylon màu trắng là ma túy đá.

Tại Kết luận giám định số 142/KLGĐ-PC09 ngày 13-8-2019 của Phòng kỹ thuật hình sự- Công an tỉnh Tiền Giang kết luận:

+ Mẫu tinh thể trong suốt trong 01 (một) gói nylon màu trắng được hàn kín, để trong một gói màu trắng được niêm phong có các chữ ký ghi họ tên: Trịnh Minh Nh, Lê Võ Thiên T và Lê Thanh Tr (Người bị bắt), Nguyễn Thị Ng (Người chứng kiến), Đinh Thị Tuyết H (Kiểm sát viên) và Võ Tuấn K (Điều tra viên); gửi giám định là ma túy, có tổng khối lượng 0,1311 gam, loại Methamphetamine.

Tại cơ quan điều tra các bị cáo khai nhận: Vào ngày 11-8-2019 sau khi uống bia tại nhà của T, thì Nh, T, Tr cùng bàn bạc, hùn tiền mua ma túy sử dụng. T hùn 100.000 đồng đưa cho Tr, Nh mượn tiền truyền hùn 100.000 đồng, còn Tr không hùn tiền. Cả nhóm phân công T đi thuê phòng tại nhà nghỉ Phương Nh, còn Tr và Nh đi mua ma túy bằng xe mô tô biển số 63B5-438.48 do Tr chở đến địa bàn thành phố M mua 01 bịch ma túy của một người phụ nữ (không rõ họ tên) với giá 200.000 đồng rồi về nhà nghỉ Phương Nh, Tr lấy bịch ma túy bỏ vào 01 hộp giấy màu trắng hình chữ nhật bên ngoài có chữ Oppo của Nh, còn Nh chuẩn bị dụng cụ để sử dụng ma túy. Khi làm dụng cụ sử dụng xong, Nh lấy một phần ma túy trong gói nylon bỏ vào dụng cụ sử dụng ma túy để cả 03 người cùng sử dụng, phần còn lại Nh hàn kín bỏ lại vào hộp giấy màu trắng để trên bàn đá trong phòng. Khi cả 03 người đang sử dụng ma túy thì bị bắt quả tang.

Bản cáo trạng số 84/CT-VKS-CG ngày 30-10-2019 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Chợ Gạo, tỉnh Tiền Giang truy tố hành vi của các bị cáo Trịnh Minh Nh, Lê Võ Thiên T, Lê Thanh Tr đã phạm vào tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự năm 2015. Đại diện Viện kiểm sát giữ quyền công tố tại phiên tòa vẫn giữ nguyên quan điểm truy tố các bị cáo. Đồng thời đề nghị Hội đồng xét xử:

Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249, Điều 38, điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự (bị cáo Tr áp dụng thêm , khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự), xử phạt: Bị cáo Trịnh Minh Nh từ 15 tháng - 18 tháng tù; Bị cáo Lê Võ Thiên T từ 15 tháng - 18 tháng tù; Bị cáo Lê Thanh Tr từ 12 tháng - 15 tháng tù;

* Vật chứng: Đề nghị Hội đồng xét xử:

- Tịch thu tiêu hủy: 01 (một) gói màu trắng được niêm phong ký hiệu vụ số 142 ngày 13-8-2019, có chữ ký in họ tên: Nguyễn Thanh Trường (giám định viên), Huỳnh Thị Diệu Hương (Trợ lý giám định), chữ ký ghi họ tên: Nguyễn Anh Duy (Bên nhận) và hình dấu tròn màu đỏ có nội dung: PHÒNG KỸ THUẬT HÌNH SỰ- CÔNG AN TỈNH TIỀN GIANG; bên trong có 01 (một gói nylon màu trắng được dán kín chứa 0,1028 gam là ma túy còn lại sau giám định loại methamphetamine và 01 (một) vỏ bao gói nylon màu trắng đã bị cắt một đầu để lấy mẫu giám định.

- 01 (một) hộp giấy màu trắng hình chữ nhật có chữ Oppo;

- 01 (một) bộ dụng cụ để sử dụng ma túy đá;

- Trả lại cho bị cáo Tr: 01 (một) điện thoại di động hiệu Mobell, màu xanh đen.

- Trả lại cho bị cáo T: 01 (một) điện thoại di động hiệu iphone 7 Plus, màu hồng.

- Đối với 02 xe mô tô biển số 63B5-438.48 đã trả cho chị Võ Thị Kim L và xe mô tô biển số 63B4-306.23 đã trả cho chị Lê Hồng Tr. Đề nghị Hội đồng xét xử không xem xét.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Tại phiên tòa các bị cáo đã khai nhận hành vi mà các bị cáo đã thực hiện đúng như nội dung bản cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân huyện Chợ Gạo đã truy tố đối với các bị cáo. Lời khai nhận của bị cáo phù hợp với vật chứng thu giữ và các tài liệu chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án. Do đó đã có cơ sở xác định:

Vào khoảng 15 giờ 50 phút ngày 11-8-2019, tại phòng trọ số 01 nhà nghỉ Phương Nh tọa lạc tại ấp Mỹ Th, xã Hòa Đ, huyện G, tỉnh Tiền Giang lực lượng Cảnh sát Điều tra tội phạm về kinh tế và ma túy- Công an huyện Chợ Gạo tiến hành kiểm tra, bắt quả tang Trịnh Minh Nh, Lê Võ Thiên T, Lê Thanh Tr tàng trữ ma túy có khối lượng 0,1311 gam, loại Methamphetamine.

Tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự quy định:

“ Người nào tàng trữ trái phép chất ma túy mà không nhằm mục đích mua bán, vận chuyển, sản xuất trái phép chất ma túy thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm:

c) heroine, Cocaine, Methamphetamine, Amphetamine, MDMA hoặc XLR-11 có khối lượng từ 0,1 gam đến dưới 05 gam;” Như vậy hành vi của các bị cáo như nhận định trên, đã đủ yếu tố cấu thành tội “tàng trữ trái phép chất ma túy” tội phạm và hình phạt được quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự.

[2] Hành vi phạm tội của các bị cáo là rất nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến chính sách độc quyền quản lý của Nhà nước về ma túy, đây là một tệ nạn xã hội mà Nhà nước ta kiên quyết bài trừ và cũng là một trong những nguyên nhân gây ra các loại tội phạm nghiêm trọng khác... Các bị cáo có đủ năng lực trách nhiệm hình sự, nhận thức được hành vi của mình là vi phạm pháp luật sẽ bị pháp luật trừng trị nghiêm khắc, nhưng chỉ vì để thỏa mãn cơn nghiện, nên các bị cáo bất chấp pháp luật cố ý thực hiện tội phạm. Do đó cần có mức án nghiêm khắc để cải tạo giáo dục các bị cáo.

Tuy nhiên xét thấy trong quá trình điều tra và tại phiên tòa các bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải. Đây là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự.

Riêng bị cáo Lê Thanh Tr có ông ngoại là liệt sĩ nên cần cho bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ theo khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự.

[3] Lời luận tội của Kiểm sát viên thực hành quyền công tố tại phiên tòa đề nghị kết tội các bị cáo theo toàn bộ nội dung cáo trạng đã truy tố và hướng giải quyết về xử lý vật chứng, là có căn cứ nên Hội đồng xét xử chấp nhận.

[4] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện Chợ Gạo, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Chợ Gạo, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng Hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, các bị cáo, những người tham gia tố tụng khác không có người nào có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[5] Về xử lý vật chứng: Căn cứ Điều 47 Bộ luật Hình sự năm 2015; Điều 106 Bộ luật Tố tụng Hình sự năm 2015.

Cần tịch thu tiêu hủy các vật chứng sau không còn giá trị sử dụng:

- 01 (một) gói màu trắng được niêm phong ký hiệu vụ số 142 ngày 13-8-2019, có chữ ký in họ tên: Nguyễn Thanh Trường (giám định viên), Huỳnh Thị Diệu Hương (Trợ lý giám định), chữ ký ghi họ tên: Nguyễn Anh Duy (Bên nhận) và hình dấu tròn màu đỏ có nội dung: PHÒNG KỸ THUẬT HÌNH SỰ - CÔNG AN TỈNH TIỀN GIANG; bên trong có 01 (một gói nylon màu trắng được dán kín chứa 0,1028 gam là ma túy còn lại sau giám định loại methamphetamine và 01 (một) vỏ bao gói nylon màu trắng đã bị cắt một đầu để lấy mẫu giám định.

- 01 (một) hộp giấy màu trắng hình chữ nhật có chữ Oppo;

- 01 (một) bộ dụng cụ để sử dụng ma túy đá;

+ Trả lại cho các bị cáo các tài sản không liên quan đến vụ án:

- Trả lại cho bị cáo Tr: 01 (một) điện thoại di động hiệu Mobell, màu xanh đen.

- Trả lại cho bị cáo T: 01 (một) điện thoại di động hiệu iphone 7 Plus, màu hồng. Đối với 02 xe mô tô biển số 63B5-438.48 đã trả cho chị Võ Thị Kim L và xe mô tô biển số 63B4-306.23 đã trả cho chị Lê Hồng Tr. Chị L, chị Tr không có ý kiến, yêu cầu gì khác nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[6] Về án phí: Các bị cáo phải chịu 200.000 đồng án phí Hình sự sơ thẩm theo quy định tại Điều 135, khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng Hình sự năm 2015; điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của UBTV Quốc hội.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố các bị cáo Trịnh Minh Nh, Lê Võ Thiên T, Lê Thanh Tr phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

+ Căn cứ vào điểm c khoản 1 Điều 249; Điều 38; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015.

Xử phạt:

Bị cáo Trịnh Minh Nh 01 (một) năm 03 (ba) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày 11-8-2019.

+ Căn cứ vào điểm c khoản 1 Điều 249; Điều 38; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015.

Xử phạt:

Bị cáo Lê Võ Thiên T 01 (một) năm 03 (ba) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày 11-8-2019.

+ Căn cứ vào điểm c khoản 1 Điều 249; Điều 38; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015.

Xử phạt:

Bị cáo Lê Thanh Tr 01 (một) năm tù. Thời hạn tù tính từ ngày 11-8-2019.

* Về xử lý vật chứng: Căn cứ Điều 47 Bộ luật Hình sự năm 2015; Điều 106 Bộ luật Tố tụng Hình sự năm 2015.

+ Tịch thu tiêu hủy:

- 01 (một) gói màu trắng được niêm phong ký hiệu vụ số 142 ngày 13-8-2019, có chữ ký in họ tên: Nguyễn Thanh Trường (giám định viên), Huỳnh Thị Diệu Hương (Trợ lý giám định), chữ ký ghi họ tên: Nguyễn Anh Duy (Bên nhận) và hình dấu tròn màu đỏ có nội dung: PHÒNG KỸ THUẬT HÌNH SỰ- CÔNG AN TỈNH TIỀN GIANG; bên trong có 01 (một gói nylon màu trắng được dán kín chứa 0,1028 gam là ma túy còn lại sau giám định loại methamphetamine và 01 (một) vỏ bao gói nylon màu trắng đã bị cắt một đầu để lấy mẫu giám định.

- 01 (một) hộp giấy màu trắng hình chữ nhật có chữ Oppo;

- 01 (một) bộ dụng cụ để sử dụng ma túy đá;

+ Trả cho các bị cáo:

- Trả lại cho bị cáo Tr: 01 (một) điện thoại di động hiệu Mobell, màu xanh đen.

- Trả lại cho bị cáo T: 01 (một) điện thoại di động hiệu iphone 7 Plus, màu hồng.

(Theo biên bản giao nhận vật chứng ngày 31-10-2019)

+ Về án phí: Áp dụng Điều 135, khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng Hình sự năm 2015; điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội. Các bị cáo mỗi người phải chịu 200.000 (hai trăm nghìn) đồng án phí Hình sự sơ thẩm.

+ Quyền kháng cáo: Áp dụng Điều 331, Điều 333 Bộ luật Tố tụng Hình sự năm 2015. Các bị cáo, người liên quan có mặt có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm. Để yêu cầu Tòa án nhân dân tỉnh Tiền Giang xét xử lại theo trình tự phúc thẩm.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

184
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 91/2019/HS-ST ngày 29/11/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:91/2019/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Chợ Gạo - Tiền Giang
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 29/11/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về