Bản án 91/2019/HSPT ngày 28/02/2019 về tội hủy hoại tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH ĐẮK LẮK

BẢN ÁN 91/2019/HSPT NGÀY 28/02/2019 VỀ TỘI HỦY HOẠI TÀI SẢN

Ngày 28/02/2019, tại Trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Đắk Lắk, tiến hành xét xử phúc thẩm vụ án hình sự thụ lý số 61/2019/HSPT ngày 16/01/2019, đối với bị cáo Trần T về tội “Hủy hoại tài sản” do có kháng cáo của bị cáo đối với bản án hình sự sơ thẩm số 107/2018/HS-ST ngày 26/11/2018 của Tòa án nhân dân huyện Ea H’leo, tỉnh Đắk Lắk.

Bị cáo có kháng cáo: Họ và tên: Trần T; sinh năm 1981; tại tỉnh Quảng Trị; nơi cư trú: Buôn Chăm H, xã Ea S, huyện Ea H1, tỉnh Đắk Lắk; giới tính: N1; quốc tịch: Việt N1; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Không; trình độ học vấn: 12/12; nghề nghiệp: Làm nông; con ông Trần T1 và bà Hồ Thị V; có vợ là Phan Thị T2 và có 02 người con, con lớn sinh năm 2009, con nhỏ sinh năm 2015; tiền án, tiền sự: Không; bị cáo được Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Ea H’leo, tỉnh ĐắkLắk áp dụng biện pháp ngăn chặn Cấm đi khỏi nơi cư trú  kể từ ngày 11/10/2018; có mặt.

Người bào chữa cho bị cáo T: Luật sư Lê Xuân Anh P thuộc Công ty Luật TNHH HK & Gia luật; có mặt.

Nguyên đơn dân sự: Công ty Trách nhiệm hữu hạn vật tư nông nghiệp Tây N; địa chỉ: Phường Tân H2, thành phố B, tỉnh Đắk Lắk;

Người đại diện theo pháp luật: Ông Kiều Hữu L - Chức vụ: Giám đốc Công ty; địa chỉ: Phường Tân H2, thành phố B, tỉnh Đắk Lắk; vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào ngày 20 tháng 11 năm 2006, Công ty Cao su Ea H1 có tờ trình số 200/TT-KHĐT gửi lên Tổng Công ty Cao su Việt N1 về việc phê duyệt dự án đầu tư xí nghiệp chăn nuôi bò giống thịt tại xã Ea S, huyện Ea H1 trên diện tích 41,5 ha tại Tiểu khu 34 thuộc xã Ea S, huyện Ea H1. Ngày 20/12/2006 Tổng Công ty Cao su Việt N1 đã có công văn số 3040/CSVN-KHĐT thống nhất cho Công ty Cao su Ea H1 đầu tư dự án trên. Ngày 02/02/2007 Ủy ban nhân dân tỉnh Đắk Lắk có Quyết định số 288/QĐ-UBND về việc thu hồi tổng diện tích 422,88 ha đất của Lâm trường Ea H1 tại xã Ea S, huyện Ea H1 giao cho Ủy ban nhân dân huyện Ea H1 quản lý để giải quyết đất sản xuất cho đồng bào dân tộc thiểu số theo Chương trình 132, 134 của Chính phủ. Xét tờ trình số 57/TTr-CSEL ngày 06/4/2006 của Công ty Cao su Ea H1 về việc phát triển chăn nuôi bò tại xã Ea S, huyện Ea H1 nên ngày 29/3/2007 Ủy ban nhân dân huyện Ea H1 có biên bản tạm bàn giao cho Công ty Cao su Ea H1 diện tích 142,96 ha đất tại xã Ea S, huyện Ea H1, trong đó có 41, 5 ha để Công ty thực hiện dự án chăn nuôi bò dưới tán rừng. Sau khi tiếp nhận Công ty Cao su đã quản lý, triển khai đầu tư cơ sở vật chất, thực hiện dự án và hoàn tất thủ tục để được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Trong quá trình thực hiện dự án, Công ty cao su Ea H1 có tờ trình số 69/TTr-CSEL ngày 26/01/2016 gửi Ủy ban nhân dân huyện Ea H1 về việc chuyển giao dự án nuôi bò cho Công ty TNHH vật tư nông nghiệp Tây N. Ngày 05/5/2016 Công ty TNHH vật tư nông nghiệp Tây N tiếp nhận diện tích 41,5 ha cùng tài sản gắn liền trên đất và tiếp tục thực hiện dự án chăn nuôi bò trên theo quyết định số 187/QĐ-HĐTVCSEL của Công ty cao su Ea H1. Ngày 20/5/2016 có biên bản bàn giao mốc ranh giới đất dự án chăn nuôi bò thịt tại xã Ea S, huyện Ea H1. Quá trình thực hiện dự án Công ty TNHH vật tư nông nghiệp Tây N tiến hành trồng cây Bơ, cây Sầu riêng để chắn gió và trồng cây Nghệ trên diện tích đất trên. Đồng thời làm tờ trình số 01/TTr- VTTN ngày 22/5/2016 cùng hồ sơ xin thuê đất để thực hiện dự án. Đến ngày 3481/QĐ-UBND chấp thuận nhà đầu tư Công ty TNHH vật tư nông nghiệp Tây N, sau khi được cấp chủ trương đầu tư sẽ hoàn thành thủ tục cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất theo quy định. Do mâu thuẫn trong việc tranh chấp đất nên vào lúc 08 giờ ngày 03/5/2018, Trần T thuê Đinh Chí N1 và Đinh Thế T2, đến khu vực đất dự án nuôi bò thịt của Công ty TNHH vật tư nông nghiệp Tây N tại tiểu khu 34, xã Ea S, huyện Ea H1 do ông Kiều Hữu L làm Giám đốc, dùng xe cày, cày xớidiện tích 7.386,3 m2 đất,  trong đó đất trồng cây Nghệ và cây Bơ là 2.498 m2.

Tại biên bản khám nghiệm hiện trường vào hồi 11 giờ 30 phút ngày03/5/2018, tại khu vực chuồng bò của  Công ty TNHH vật tư nông nghiệp Tây Nthể hiện: Tại khu vực thứ nhất  có tổng diện tích bị cày xới là 4.252 m2, trong đó có 2.498 m2 là diện tích đất trồng nghệ, còn lại 1754 m2 là diện tích đất trống. Tại khu vực thứ 2 có tổng diện tích đất bị cày xới là 3.134,3 m2 là khu vực đất có nhiều gốc cỏ lớn. Tại khu vực đất trồng nghệ bị cày xới có 01 cây bơ bị cày bung lên khỏi mặt đất.

Tại bản kết luận định giá tài sản số: 349 ngày 22/5/2018 của Hội đồng định giá tài sản huyện Ea H1, kết luận: Diện tích Nghệ bị cày xới là 2.498 m2 và 01 cây Bơ, loại Bơ bút. Tổng giá trị tài sản thiệt hại là 22.622.000 đồng.

Tại bản án hình sự sơ thẩm số 107/2018/HS-ST ngày 26/11/2018, của Tòa án nhân huyện Ea H’leo đã quyết định:

Tuyên bố: Bị cáo Trần T, phạm tội “Hủy hoại tài sản”.

Áp dụng khoản 1 Điều 178; các điểm i, s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015; khoản 3 Điều 21, các điểm a, c khoản 1 Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH ngày 30/12/2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Xử phạt: Bị cáo Trần T: 09 (Chín) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt thi hành án.

Ngoài ra, Tòa án cấp sơ thẩm còn tuyên xử về các biện pháp tư pháp, về án phí và quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.

Ngày 27/11/2018, bị cáo Trần T có đơn kháng cáo với nội dung kêu oan. Đồng thời bị cáo cũng có ý kiến nếu có đủ căn cứ xác định Cơ quan cảnh sát điều tra huyện Ea H’leo đã điều tra đúng vụ việc, Viện kiểm sát nhân dân huyện Ea H’leo truy tố đúng, thì đề nghị Tòa án cấp phúc thẩm giảm nhẹ hình phạt và cho bị cáo được hưởng án treo.

Tại phiên tòa phúc thẩm, bị cáo đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình đúng như nội dung đã được tóm tắt nêu trên.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Đắk Lắk đã phân tích, đánh giá tính chất, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo và cho rằng Tòa án cấp sơ thẩm đã xét xử bị cáo Trần T về tội “Hủy hoại tài sản” theo khoản 1 Điều 178 BLHS là có căn cứ pháp lý, đảm bảo đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

Xét kháng cáo của bị cáo: Xét kháng cáo kêu oan của bị cáo là không có căn cứ. Bởi vì, tại Cơ quan điều tra, tại phiên tòa sơ thẩm và tại phiên tòa phúc thẩm bị cáo cũng đã thừa nhận bị cáo thuê Đinh Chí N1 và Đinh Thế T2 đến khu vực đất dự án nuôi bò thịt của Công ty TNHH vật tư nông nghiệp Tây N dùng xe máy cày, cày xới diện tích 7.386,3m2 đất. Trong đó, đất trồng cây Nghệ và cây Bơ là 2.498m2. Nếu bị cáo có tội, đề nghị Tòa án cấp phúc thẩm giảm nhẹ hình phạt và cho bị cáo được hưởng án treo là không có cơ sở. Bởi vì, xét thấy mức hình phạt 09 tháng tù mà Tòa án cấp sơ thẩm đã xử phạt đối với bị cáo là phù hợp, tương xứng với tính chất mức độ do hành vi phạm tội mà bị cáo gây ra. Tòa án cấp sơ thẩm đã áp dụng đầy đủ các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự. Tại phiên tòa phúc thẩm, bị cáo cũng không cung cấp thêm tình tiết giảm nhẹ nào mới. Do vậy, đề nghị Hội đồng xét xử phúc thẩm không chấp nhận kháng cáo của bị cáo. Giữ nguyên bản án hình sự sơ thẩm.

Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

Người bào chữa cho bị cáo T – Ông Lê Xuân Anh P trình bày: Nguồn gốc đất chưa xác định được chủ sở hữu hợp pháp, tài sản trên đất chưa xác định được là của Công ty TNHH vật tư nông nghiệp Tây N hay của ông Kiều Hữu L; về định giá tài sản chưa khách quan; nghệ trồng từ năm 2017 đến năm 2018 đã thu hoạch được nên việc Tòa án cấp sơ thẩm đã xét xử bị cáo Trần T về tội “Hủy hoại tài sản” theo khoản 1 Điều 178 BLHS là chưa có cơ sở. Đề nghị Hội đồng xét xử hủy bản án sơ thẩm, trả hồ sơ về cho Viện kiểm sát và Cơ quan điều tra điều tra lại.

Đại diện Viện kiểm sát và Luật sư tranh luận giữ nguyên quan điểm, bị cáo không tranh luận gì thêm.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được xem xét tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

 [1] Lời khai của bị cáo Trần T tại phiên toà phúc thẩm là phù hợp với lời khai của bị cáo tại Cơ quan điều tra, phù hợp với lời khai của những người tham gia tố tụng khác và phù hợp với các tài liệu, chứng cứ khác đã được thu thập có trong hồ sơ vụ án. Như vậy, đã có đủ cơ sở để kết luận: Vào lúc 08 giờ ngày 03/5/2018, Trần T thuê Đinh Chí N1 và Đinh Thế T2, đến khu vực đất dự án nuôi bò thịt của Công ty TNHH vật tư nông nghiệp Tây N tại tiểu khu 34, xã Ea S, huyện Ea H1 do ông Kiều Hữu L làm Giám đốc, dùng xe cày, cày xới diện tích 7.386,3 m2 đất , trong đó đất trồng cây Nghệ và cây Bơ là 2498 m2. Tổng giá trị tài sản thiệt hại là 22.622.000 đồng. Vì vậy, Toà án cấp sơ thẩm đã xét xử bị cáo Trần T về tội “Hủy hoại tài sản” theo khoản 1 Điều 178 Bộ luật hình sự là có căn cứ pháp lý, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

 [2] Xét kháng cáo của bị cáo T , Hội đồng xét xử xét thấy:

 [2.1] Bị cáo T kháng cáo kêu oan là không có căn cứ. Bởi vì, bị cáo T đã thừa nhận hành vi thuê người và máy cày hủy hoại tài sản của Công ty TNHH vật tư nông nghiệp Tây N tại tiểu khu 34, xã Ea S, huyện Ea H1 do ông Kiều Hữu L làm Giám đốc. Việc bị cáo khai nại rằng, bị cáo thuê người cày cây nghệ và cây bơ trên đất của Công ty TNHH vật tư nông nghiệp Tây N là do ông Phạm Quang H2 cho. Quá trình điều tra, ông H2 không thừa nhận việc cho bị cáo thuê người cày trên đất của Công ty TNHH vật tư nông nghiệp Tây N. Vì ông H2 chỉ là người làm công cho Công ty TNHH vật tư nông nghiệp Tây N.

 [2.2] Đơn kháng cáo của bị cáo còn đưa ra ý kiến nếu có đủ căn cứ xác định Cơ quan Cảnh sát điều tra công an huyện Ea H1 đã điều tra đúng vụ việc, Viện kiểm sát nhân dân huyện Ea H1 truy tố đúng. Thì đề nghị Tòa án cấp phúc thẩm giảm nhẹ hình phạt và cho bị cáo được hưởng án treo. Xét mức hình phạt 09 tháng tù mà Tòa án cấp sơ thẩm đã xử phạt đối với bị cáo Trần T là thỏa đáng, tương xứng với tính chất, mức độ, hậu quả do hành vi phạm tội mà bị cáo gây ra. Bản án sơ thẩm đã áp dụng đầy đủ các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho bị cáo. Tại phiên tòa phúc thẩm, bị cáo không cung cấp thêm tình tiết giảm nhẹ nào mới. Do vậy, không có căn cứ chấp nhận kháng cáo của bị cáo, mà cần giữ nguyên bản án sơ thẩm về phần hình phạt.

 [3] Về án phí: Do không được chấp nhận kháng cáo nên bị cáo phải chịu tiền án phí hình sự phúc thẩm.

 [4] Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật, kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

[1] Căn cứ vào điểm a khoản 1 Điều 355, Điều 356 Bộ luật tố tụng hình sự; Không chấp nhận kháng cáo của bị cáo Trần T - Giữ nguyên bản án hình sự sơ thẩm số 107/2018/HS-ST ngày 26/11/2018, của Tòa án nhân dân huyện Ea H’leo, tỉnh Đắk Lắk.

 [2] Áp dụng khoản 1 Điều 178; các điểm i, s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015. Xử phạt: Bị cáo Trần T 09 (Chín) tháng tù về tội “Hủy hoại tài sản”. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt thi hành án.

 [3] Về án phí phúc thẩm: Bị cáo Trần T phải chịu 200.000 đồng tiền án phí hình sự phúc thẩm.

 [4] Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

 [5] Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

405
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 91/2019/HSPT ngày 28/02/2019 về tội hủy hoại tài sản

Số hiệu:91/2019/HSPT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Đăk Lăk
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 28/02/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về