Bản án 91/2019/HNGĐ-ST ngày 15/11/2019 về ly hôn, tranh chấp nuôi con

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN TÂN PHÚ, TỈNH ĐỒNG NAI

BẢN ÁN 91/2019/HNGĐ-ST NGÀY 15/11/2019 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON 

Ngày 15 tháng 11 năm 2019, tại Tòa án nhân dân huyện Tân Phú, tỉnh Đồng Nai xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 397/2019/TLST-HNGĐ ngày 30 tháng 8 năm 2019, về việc “Ly hôn, tranh chấp về nuôi con” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 87/2019/QĐXXST-HNGĐ ngày 09 tháng 9 năm 2019, Quyết định hoãn phiên tòa số 51/2019/QĐST-HNGĐ ngày 30 tháng 10 năm 2019 giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Chị Trần Thị Tuyết N – sinh năm 1992

Địa chỉ: Số nhà 62, Tổ 8, Ấp NL, xã PX, huyện Tân Phú, tỉnh Đồng Nai.

- Bị đơn: Anh Nguyễn Quốc T – sinh năm 1990

Địa chỉ: Ấp TL, xã PX, huyện Tân Phú, tỉnh Đồng Nai.

(Chị N có đơn đề nghị xét xử vắng mặt; anh T vắng mặt)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Tại đơn khởi kiện đề ngày 26/8/2019 và lời khai trong quá trình thụ lý hòa giải, nguyên đơn chị Trần Thị Tuyết N trình bày:

- Về hôn nhân: Chị N và anh Nguyễn Quốc T tự nguyện chung sống từ năm 2010 nhưng không đăng ký kết hôn theo quy định của pháp luật nên không được cấp giấy chứng nhận kết hôn. Anh chị chung sống hạnh phúc đến năm 2012 thì xảy ra mâu thuẫn do vợ chồng thường xuyên bất đồng quan điểm, thường hay cãi nhau, bản thân anh chị đã tự hòa giải nhưng không thành nên đã không còn chung sống từ cuối năm 2012 cho đến nay. Chị nhận thấy tình cảm không còn, mục đích của hôn nhân không đạt được nên chị yêu cầu được ly hôn với anh.

- Về nuôi con: Chị N trình bày có 01 (Một) con chung là Nguyễn Trần Bảo K – sinh ngày 10/8/2010. Chị N đồng ý giao con chung cho anh T trực tiếp nuôi dưỡng, tạm thời chị không cấp dưỡng nuôi con do chưa có thu nhập ổn định.

- Về tài sản: Chị N trình bày chị và anh T không có tài sản chung và nợ chung, nên không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Nguyên đơn đã giao nộp những tài liệu, chứng cứ sau đây: Đơn khởi kiện, Chứng minh nhân dân và sổ hộ khẩu của nguyên đơn (Bản sao), Trích lục khai sinh con chung (Bản sao), Giấy xác nhận hộ khẩu thường trú đối với bị đơn. Tòa án đã tiến hành sao gửi các tài liệu chứng cứ trên cho bị đơn.

Để giải quyết vụ án, Tòa án đã tiến hành thu thập những tài liệu, chứng cứ sau: Bản tự khai, Đơn đề nghị xác minh, Đơn đề nghị Tòa án hỗ trợ sao gửi tài liệu, chứng cứ và Đơn đề nghị giải quyết vắng mặt của nguyên đơn; Đơn thể hiện nguyện vọng của con chung; Biên bản xác minh của Tòa án. Tòa án đã tiến hành thông báo về việc thu thập được tài liệu chứng cứ cho các đương sự.

Quá trình giải quyết vụ án, các đương sự không có thay đổi, bổ sung ý kiến, đề nghị của mình; bị đơn không có yêu cầu phản tố. Các đương sự không giao nộp, bổ sung thêm tài liệu chứng cứ nào khác, không yêu cầu triệu tập đương sự, người làm chứng và những người tham gia tố tụng khác.

Phát biểu của Kiểm sát viên:

- Về việc tuân theo pháp luật tố tụng: Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa và đương sự đã tuân thủ đúng các quy định của pháp luật tố tụng dân sự kể từ khi thụ lý cho đến trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị án. Nguyên đơn có đơn đề nghị xét xử vắng mặt, bị đơn đã được triệu tập hợp lệ đến lần thứ hai nhưng vẫn vắng mặt nên đề nghị Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt các đương sự.

- Về việc giải quyết vụ án: Đề nghị Tòa án tuyên bố không công nhận quan hệ hôn nhân giữa chị Trần Thị Tuyết N và anh Nguyễn Quốc T là vợ chồng. Về con chung: Giao cho anh T trực tiếp nuôi con chung là Nguyễn Trần Bảo K – sinh ngày 10/8/2010, tạm thời chị N chưa phải cấp dưỡng cho con. Về tài sản: Đề nghị về tài sản chung, nợ chung sẽ được giải quyết bằng vụ án khác khi có tranh chấp. Về án phí: Nguyên đơn phải chịu 300.000đ tiền án phí dân sự sơ thẩm về ly hôn.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Căn cứ vào tài liệu, chứng cứ đã được xem xét tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa.

[1] Về áp dụng pháp luật tố tụng:

- Bị đơn anh Nguyễn Quốc T có nơi cư trú tại xã PX, huyện Tân Phú, tỉnh Đồng Nai nên vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Tân Phú theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39 Bộ luật Tố tụng dân sự.

- Chị Trần Thị Tuyết N khởi kiện yêu cầu ly hôn đối với anh T, tranh chấp về nuôi con chung. Vì vậy, quan hệ pháp luật tranh chấp trong vụ án được xác định là “Ly hôn, tranh chấp về nuôi con” theo quy định tại khoản 1 điều 28 Bộ luật Tố tụng dân sự; xác định tư cách đương sự chị N là nguyên đơn và anh T là bị đơn, được quy định tại khoản 2 và khoản 3 Điều 68 Bộ luật Tố tụng dân sự.

- Quá trình giải quyết vụ án, bị đơn đã được cấp, tống đạt, thông báo hợp lệ các văn bản tố tụng của Tòa án nhưng vẫn vắng mặt tại phiên họp, phiên hòa giải không vì sự kiện bất khả kháng hay trở ngại khách quan. Vì vậy, Tòa án không tiến hành hòa giải được theo khoản 1 Điều 207 Bộ luật Tố tụng Dân sự.

- Nguyên đơn có đơn đề nghị giải quyết vắng mặt, bị đơn đã được triệu tập hợp lệ lần thứ hai nhưng vẫn vắng mặt tại phiên tòa. Căn cứ khoản 2 Điều 227, Điều 228 và Điều 238 Bộ luật Tố tụng Dân sự, Tòa án tiến hành xét xử vắng mặt các đương sự theo quy định của pháp luật.

[2] Về áp dụng pháp luật nội dung:

- Về hôn nhân: Chị Trần Thị Tuyết N và anh Nguyễn Quốc T tự nguyện chung sống với nhau từ năm 2010 đến nay nhưng không đăng ký kết hôn nên không được cấp giấy chứng nhận kết hôn theo quy định của pháp luật. Cuộc sống chung của anh chị đến năm 2012 thì không còn hạnh phúc do bất đồng quan điểm, không hòa hợp, thường hay cự cãi nên anh chị đã không còn chung sống từ cuối năm 2012 cho đến nay.

Kết quả xác minh, thu thập chứng cứ của Tòa án về tình trạng hôn nhân tại địa phương và các tài liệu, chứng cứ trong hồ sơ cũng thể hiện phù hợp với lời khai của chị N. Mặc dù anh chị đủ điều kiện kết hôn nhưng lại chung sống với nhau như vợ chồng mà không đăng ký kết hôn nên không làm phát sinh quyền, nghĩa vụ giữa vợ và chồng. Căn cứ vào khoản 1, Điều 9, Điều 14, Điều 51, Điều 53, Điều 131 Luật hôn nhân gia đình năm 2014; Luật Hôn nhân gia đình năm 2000; điểm b Khoản 3 Nghị quyết 35/2000/NQ-QH10 ngày 09/6/2000; khoản 4, Điều 3 Thông tư liên tịch số 01/2016/TTLT-TANDTC-VKSNDTC-BTP ngày 06 tháng 01 năm 2016, Hội đồng xét xử tuyên bố không công nhận quan hệ hôn nhân giữa chị Trần Thị Tuyết N và anh Nguyễn Quốc T là vợ chồng.

- Về con chung: Chị N trình bày đồng ý giao con chung cháu Nguyễn Trần Bảo K – sinh ngày 10/8/2010 cho anh T trực tiếp nuôi dưỡng, tạm thời chị không cấp dưỡng nuôi con do chị chưa có thu nhập ổn định. Kết quả xác minh, thu thập chứng cứ của Tòa án về nuôi con chung tại địa phương và các tài liệu, chứng cứ trong hồ sơ thể hiện: Từ cuối năm 2012 khi chị N và anh T không còn chung sống cho đến nay, cháu Nguyễn Trần Bảo K – sinh ngày 10/8/2010 do anh T trực tiếp nuôi dưỡng, bản thân anh T cũng có nguyện vọng nuôi dưỡng con chung, không yêu cầu chị cấp dưỡng. Đối với cháu K là con đủ 07 (bảy) tuổi trở lên có nguyện vọng tiếp tục ở với anh T. Căn cứ Điều 81, Điều 82 và Điều 83 Luật hôn nhân và Gia đình, Hội đồng xét xử xét thấy yêu cầu của nguyên đơn với nội dung giao cho bị đơn trực tiếp nuôi con chung, tạm thời không phải cấp dưỡng cho con là có cơ sở để chấp nhận.

- Về tài sản: Chị N trình bày chị và anh T không có tài sản chung và nợ chung, không yêu cầu Tòa án giải quyết. Anh T không có văn bản trình bày ý kiến về tài sản chung, nợ chung và không có yêu cầu phản tố. Vì vậy, Hội đồng xét xử tách phần tài sản ra giải quyết bằng vụ án khác khi có yêu cầu. hôn.

[3] Về án phí: Chị N phải chịu 300.000đ tiền án phí dân sự sơ thẩm về ly [4] Xét quan điểm của Đại diện Viện kiểm sát phù hợp với nhận định của Hội đồng xét xử nên được chấp nhận.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào:

 - Khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39, Điều 147, khoản 2 Điều 227, Điều 228, Điều 235, Điều 238 và Điều 273 Bộ luật tố tụng dân sự;

- Khoản 1 Điều 9, Điều 14, Điều 51, Điều 53, Điều 131 Luật hôn nhân gia đình năm 2014; Luật Hôn nhân gia đình năm 2000;

- Điểm b Khoản 3 Nghị quyết 35/2000/NQ-QH10 ngày 09/6/2000; khoản 4, Điều 3 Thông tư liên tịch số 01/2016/TTLT-TANDTC-VKSNDTC-BTP ngày 06 tháng 01 năm 2016;

- Điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc Hội quy định mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Tuyên xử:

1. Tuyên bố: Không công nhận quan hệ hôn nhân giữa chị Trần Thị Tuyết N và anh Nguyễn Quốc T là vợ chồng.

2. Về nuôi con: Giao cho anh Nguyễn Quốc T trực tiếp nuôi con chung là cháu Nguyễn Trần Bảo K – sinh ngày 10/8/2010, tạm thời chị Trần Thị Tuyết N chưa phải cấp dưỡng cho con.

Chị N có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở. Vì lợi ích của con chung, các đương sự có quyền thay đổi việc nuôi con và cấp dưỡng cho con theo quy định của pháp luật.

3. Về tài sản: Phần tài sản chung và nợ chung của các đương sự sẽ được giải quyết bằng vụ án khác khi có yêu cầu.

4. Về án phí: Chị Trần Thị Tuyết N phải chịu 300.000đ (Ba trăm nghìn đồng) tiền án phí dân sự sơ thẩm về ly hôn. Số tiền tạm ứng án phí 300.000đ (Ba trăm nghìn đồng) chị N nộp theo biên lai thu số 005624 ngày 30/8/2019 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Tân Phú, tỉnh Đồng Nai chuyển thành án phí.

5. Người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự năm 2008 (Sửa đổi, bổ sung năm 2014).

6. Về quyền kháng cáo: Các đương sự được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 (mười lăm) ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

186
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 91/2019/HNGĐ-ST ngày 15/11/2019 về ly hôn, tranh chấp nuôi con

Số hiệu:91/2019/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Tân Phú - Đồng Nai
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 15/11/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về